Bà Chúa Thác Bờ

Thần tích Chúa Thác Bờ

Chúa Thác Bờ là một nhân vật huyền thoại trong tín ngưỡng dân gian vùng Tây Bắc mà phổ biến nhất là miền Hòa Bình, bà là vị chúa bà nổi tiếng linh thiêng bậc nhất của đất Hòa Bình. Nhân dân nơi đây thường đến kêu cầu, cúng lễ để xin lộc chúa chữa bệnh cũng như cầu phúc lộc.

Tương truyền, bà vốn là người Mường, sinh quán ở đất Hòa Bình dưới thời nhà Lê (có người nói là thời Trần). Chúa Thác Bờ tên thật là Đinh Thị Vân, con gái một gia đình tộc trưởng người Mường ở Kim Bôi, Hòa Bình. Chúa xưa vốn là tiên nữ, giáng sinh vào nhà họ Đinh, sau này, đất nước gặp cơn loạn lạc, bà đã tập hợp dân Mường liên kết với các dân tộc khác ở vùng đất Hòa Bình, đứng lên đánh đuổi quân xâm lược. 

Sau khi đã đánh đuổi được bọn ngoại xâm, bà được triều đình giao cho cai quản vùng đất Mường ở Hòa Bình. Tại đây, bà giúp dân ổn định cuộc sống, dạy nhân dân lên rẫy làm nương, xuống sông Đà thả lưới đánh bắt cá (tương truyền Chúa Thác còn là người giúp dân trị thủy, chế ngự con sông Đà cuồn cuộn sóng hung dữ). Khi thanh nhàn, chúa lại một mình trên chiếc thuyền độc mộc, chèo từ Bến Ngọc, Sông Đà đi du ngoạn khắp các thắng cảnh. Để ghi nhớ công đức của bà, sau khi bà mất, Lê Lợi đã lệnh cho dân bản xứ lập đền thờ bà bên cạnh Thác Bờ. 

Trong tài liệu nghiên cứu của Sở Văn Hóa Hòa Bình thì Sự tích Chúa Thác Bờ như sau: Vào năm 1430 – 1432, Vua Lê Lợi đem quân dẹp loạn tại đèo Cát Hãn ở Mường Lễ, Sơn La. Khi Vua Lê Lợi kéo quân đến Thác Bờ thì thấy giữa dòng nước xoáy phía trước một thác nước hiểm trở xô bọt trắng xóa, với muôn vàn mỏm đá lởm chởm nên không thể tiến quân lên được. Lúc bấy giờ ở xã Hào Tráng- Đà Bắc có người con gái dân tộc Mường là Đinh Thị Vân và cô gái người Dao (không rõ tên) ở xóm Mó Nẻ, Vầy Nưa, Đà Bắc đã đứng lên vận động trai tráng trong bản lên rừng xẻ ván đóng thuyền, kêu gọi nhân dân chặt nứa, tre kết thành bè mảng, góp lương thực, thực phẩm cho nhà vua nuôi quân và chở giúp quân sĩ đi qua Thác Bờ đánh giặc. Trên đường chiến thắng trở về, vào tháng 3 năm 1432, vua Lê Lợi dừng chân khao quân ở Thác Bờ. Hai Cô lại vận động bà con góp cơm lam, thịt muối chua, rượu cần, múa hát điệu thường rang, bọ mẹng, ném còn, múa xòe để liên hoàn mừng chiến thắng. Sau này khi hai bà mất, hai bà thường hiển linh giúp đỡ mọi người khi đi qua Thác. Nhà Vua đã ban chiếu chỉ cho dân trong vùng lập đền thờ 2 bà. Nhân dân phong hai bà là Chúa Thác Bờ.

Khảo dị khác về Sự tích Chúa Thác Bờ

Phía trên đã trình bày về sự tích Chúa Thác Bờ theo tài liệu của Sở VHTT Hòa Bình. Tuy nhiên, trong dân gian còn có nhiều sự tích về Chúa, nhưng đặc trưng nhất là có một tài liệu cho rằng:  Trong một lần chuyển lương thảo cho Lê Lợi, trời đã nổi phong ba, sóng lớn đưa hai bà về trời. Sau này, tại nơi hai bà thác hóa, nhân dân đã xây dựng miếu và đền thờ để ghi nhớ công của hai bà.

Ở miền Bắc cũng như trong Nam, bên cạnh các đền thờ Mẫu thuộc hệ thống Mẫu Tam phủ, Tứ phủ thì còn tồn tại một hình thức tín ngưỡng thờ Mẫu nằm ngoài hệ thống Mẫu Tam Phủ, Tứ Phủ, được gọi là tên: Bà Chúa (Bà Chúa Xứ, Bà Chúa Thác Bờ, Bà Đen hay Linh Sơn Thánh Mẫu, Bà Chúa Tiên, Bà Chúa Ngọc, Bà Chúa Động…), thờ Bà (Bà Thuỷ, Bà Hoả, Bà Thiên Hậu..), các đền thờ Thánh Mẫu khác (Ý Lan Thánh Mẫu, Thiên Hậu Thánh Mẫu). Tuy là những tên gọi khác nhau nhưng đều có nguồn cội từ tục thờ Nữ thần. Tuy nhiên, không phải Nữ thần nào cũng thành Bà, thánh Chúa và đặc biệt là thành Mẫu.

Sắc phong

Chúa Thác hoá ở Thác Bờ và được Vua phong làm Chế Thắng Hoà Diệu Đại Vương làm chúa đất Hoà Bình, Sơn La, Lai Châu, Điện Biên. Anh Linh lừng lẫy khắp chốn sơn trang. Ngài là chúa Bản Cảnh đất Hoà Bình nói riêng và là chúa động Mường nói chung. 

Hầu giá Chúa Thác Bờ

Trong Tứ Phủ, Chúa Thác thuộc Thoải Phủ nên Chúa còn về bốc thuốc chữa bệnh, lấy nước tiên đem về cứu chữa cho nhân dân nên dân gian còn gọi là bà Chúa Chữa giống như chúa Đệ Tam

Chúa Thác Bờ rất hay ngự về đồng, thông thường Chúa Thác thường hay ngự về sau Chầu Đệ Tam (vậy nên có người lại gọi là Chầu Thác Bờ nhưng đôi khi có người lại hầu Chúa Thác sau Chúa Mường Đệ Tam Lâm Thao hoặc hầu chúa sau Chầu Bé Thượng), nhưng Chúa Thác Bờ thường hay ngự về hơn Chầu Đệ Tam và có khi người ta không thỉnh Chầu Đệ Tam mà thỉnh luôn chúa về chứng tòa Sơn Trang màu trắng rồi thả cá phóng sinh trong đại lễ khai đàn, mở phủ. Chúa ngự về đồng thường mặc áo trắng, quần đen, đai xanh, bên hông có xà tích bạc, chúa về khai cuông rồi một tay cầm chèo, một tay cầm mồi, bẻ lái dạo chơi trên sông Đà.

Thờ tự

Trong thập tam lục động, bà được thờ ở rất nhiều nơi nhưng nổi tiếng nhất là Đền Chúa Thác Bờ ở xã Thung Nai, huyện Cao Phong và Đền Chúa Thác Bờ tại xã Vầy Nưa, huyện Đà Bắc. Cũng lưu ý rằng có nhiều người lầm tưởng đền Vầy Nưa là thờ Cô bé Thác Bờ, còn Đền Cao Phong là thờ Chúa Thác Bờ, bởi ít ai nghĩ có cùng hai đền thờ Bà Chúa Thác Bờ. Đền Vầy Nưa thuộc sự quản lý của Nhà nước bởi đền đã được công nhận là Di tích lịch sử còn đền Cao Phong hiện vẫn do người dân quản lý. Hai đền cách nhau khoảng 15 phút đi đò và cũng chỉ cách Động Thác Bờ khoảng 15 phút đi đò tạo nên một quần thể du lịch tâm linh Thác Bờ.

Đền Thung Nai hay đền Vầy Nưa là đền thờ chính của Chúa Thác Bờ?

Căn cứ sự nghiên cứu về lịch sử và di vật Đền Thung Nai và Đền Vầy Nưa, Sở VHTT Hòa Bình đã xác định Đền Chúa Thác Bờ Vầy Nưa là xuất phát từ ngôi đền cổ tại xã Hào Tráng, huyện Đà Bắc xưa kia. Hiện Đền Chúa Thác Bờ Vầy Nưa còn có hai bức tượng cổ về hai bà Chúa Thác Bờ và cái chuông cổ có niên đại mấy trăm năm là di vật của ngôi đền cổ.

Mặt khác, cả hai bà chúa đều được sinh ra tại xóm Mó Nẻ, xã Vầy Nưa, huyện Đà Bắc. Như vậy Đền Vầy Nưa không chỉ là được xuất phát từ đền cổ mà còn chính là quê sinh của cả hai bà Chúa. Chính vì vậy, Sở VHTT Hòa Bình đã công nhận Đền Chúa Thác Bờ Vầy Nưa là Di tích lịch sử và được đưa vào danh sách trùng tu, bảo tồn. 

Có một số tài liệu cho rằng, đền Thung Nai thờ Chúa Thác Bờ người Dao, đền tổ thờ Chúa Thác Bà người Mường. Thật ra chỉ có một bà Chúa Thác Bờ mà thôi, cả hai người Mường và người Dao đều là hiện thân của Bà Chúa Thác Bờ chứ không tách bạch là riêng bà nào. Ý kiến mỗi bà một đền là trái với sắc phong của vua Lê Lợi và ảnh hưởng tình cảm lâu đời của cộng đồng người Dao và người Mường nơi đây.

Bản văn Chúa Thác Bờ

Cung văn đóng vai trò quan trọng trong hầu đồng. Để một buổi thực hành nghi lễ Hầu đồng được “đắc lễ”, những bản hát văn hay là điều rất cần thiết. Việc kết hợp các bản hát văn hay với nghệ thuật hát giỏi sẽ làm buổi lễ được thành công. Dưới đây là một vài bản hát văn Chúa Thác Bờ mực trong nghệ thuật hát văn Việt Nam. Văn Chúa Thác Bờ thường được sử dụng rất nhiều trong mỗi buổi thực hành nghi lễ. 

Bản 1:

Ai lên tới Thung Nai, Đà Bắc
Ngược sông Đà bến ngọc lung linh.
Ai lên lễ Mẫu Hòa Bình,
Chợ Bờ Hang Miếng thác ghềnh cheo leo.
Chợ Phương Lâm sớm chiều đông đúc,
Đội ngư phường độc mộc bán buôn.
Chuông đền văng vẳng sớm hôm,
Xa nghe tiếng hú gọi hồn rừng ngang
Danh Chúa Thác sơn trang lừng lẫy,
Đất Hoà Bình đã dậy oai linh.
Nửa đêm giờ tý hiện hình,
Áo pha màu tuyết bên mình túi dao.
Thường vượt suối băng đèo hái thuốc,
Luyện một bầu tiên dược hồi sinh.
Nức danh Chầu Thác Hoà Bình,
Vì đời đem lại tuổi xuân cho đồng.
Gieo lúa mạch ngô khoai sắn đỗ
Cho người đời trăm họ yên vui
Non tiên cảnh vật xa vời,
Có tiên Chầu Thác vốn người sơn trang
Đã bao lần khai hoang mở lối
Giúp dân lành sớm tối lên công
Bao năm đục núi khơi dòng
Đem nguồn nước ngọt ấm lòng dân sinh
Tuổi đôi tám xuân xanh vừa độ
Tài lược thao văn võ kiếm cung
So bề: ngôn,hạnh,công,dung
Trừ gian dẹp loạn khắp vùng biên cương
Đức nhân hiếu đôi đường vẹn cả
Nguyện vì đời một dạ đinh ninh
Vì đời đem lại thanh bình
Cho cây chắc rễ cho cành nở hoa
Tay tô điểm sơn hà cẩm tú
Cứu muôn người trăm họ an vui
Gương xưa còn để cho đời
Tấm  gương Chầu Thác muôn đời noi theo
Đường nhân sự hiểm nghèo đã trải
Nhẹ gót hài trở lại sơn trung
Phép mầu lục trí thần thông
Lánh đường lục đạo thoát vòng tử sinh
Dẫn sự tích văn trình một bản
Thỉnh Chầu bà chứng giám lai lâm
Chữ rằng Thần giáng lưu ân
Chầu Bà lưu phúc thiên xuân thọ trường.

Bản 2:

Thanh nhàn dạo khắp nơi nơi
Nay đà Suối Rút ,Kim Bôi ,Hòa Bình
Núi ngũ nhạc rừng xanh mở lối
Qua Lương Sơn thẳng tới Dốc Kun
Non cao khuất khúc dặm trường
Dân cư vắng vẻ xóm làng lơ thơ
Trâu gõ mõ tiếng gà cục tác
Vượn ru con tha thiết đêm thâu
Chim Công múa quạt bên lầu
Những chim khảm khắc về chầu ca vang
Bên sườn núi nhà sàn mấy lớp
Cầu thang mây nhẹ gót rung rinh
Tắc Kè dong dả cầm canh
Đàn ong lấy mật lượn quanh bản mường
Dưới chân núi măng giang măng lứa
Cùng măng tre nấm mọc thơm bay
Khế chua sung chat gừng cay
Bí ngô mướp đắng ngô khoai lạc vừng
Tiều hớn hở băng rừng đốn củi
Dưới sông Đà vịt lội nhấp nhô
Ai lên cảnh đẹp Thác Bờ
Trước non sông núi đền thờ trang nghiêm
Vách núi nghiêng bên hồ nước chảy
Danh Chầu Bà vang dậy bốn phương
Thung Nai bản ấp họ Mường
Nhà sàn ven suối có đường lên non
Tiếng chim non véo von đầu núi
Con đường mòn thẳng lối ra sông
Say say vò rượu cay nồng
Bập bùng ánh lửa tiếng cồng tiếng chiêng
Thượng đệ tử án tiền tấu đối
Lập đàn tràng sám hối cửa thiêng
Thỉnh Chầu trắc giáng bản đền
Khuông phù đệ tử thiên niên thọ trường.

Bản 3:

“Vầng nhật nguyệt đêm ngày soi tỏ
Cảnh Thác Bờ rực rỡ càn khôn
Lô xô đá mọc đầu nguồn
Khen ai khéo tạc thác luồng chơi vơi
Cảnh Thác Bờ là nơi thánh tích
Lập đền thờ thanh lịch xiết bao
Sông Đà nước chảy rì rào
Sau đền đá mọc thấp cao mấy tầng
Cảnh thanh tân thiều quang soi tỏ
Chúa Thác Bờ tiên nữ giáng sinh
Họ Mường áo trắng đai xanh
Lưng đeo xà tích bên mình dao quai
Đôi mắt phượng hoa cài trâm giắt
Vầng trán xinh vẻ mặt càng tươi
Môi son nở đóa hoa cười
Thanh tân lịch sự nét ngời thu ba
Tóc rườm rà rẽ đôi cánh phượng
Nét cong cong uốn lượn đường tơ
Xinh xinh để liễu thẫn thờ
Người xinh thời cảnh Thác Bờ thêm tươi
Thú hữu tình rong chơi các ngả
Bước ngao du khắp cả non cao
Mường Bi, Mường Nậm, phố Sào
Chồng Mâm, Yên Lịch lại vào Kim Bôi
Chiếc thuyền rồng chèo chơi bến ngọc
Dọc sông Đà dạo khắp suối khe
Hang Miếng, Suối Rút chèo về
Ngược xuôi xuôi ngược thuyền về động tiên
Khắp mọi miền kêu cầu vọng bái
Ai lỗi lầm chúa đoái lòng thương
Dù ai căn số dở dương
Lòng thành thắp một tuần hương kêu cầu
Đã nhất tâm tất cầu kêu ứng
Độ cho người phúc đẳng hà sa
Ai mà vận hạn khó qua
Đến kêu Chúa Thác chúa bà cứu cho
Chúa cứu cho người tai qua nạn khỏi
Chúa cứu người khỏi cõi trầm luân
Nước tiên tẩy sạch bụi trần
Thanh tao rồi lại mười phần thanh cao
Chữ cương thường treo cao trên giá ngọc
Chứ tam tòng tứ đức khuyên ghi
Đệ tử khấn vái tâu quỳ
Thác Bờ công chúa độ trì chứng minh
Thác Bờ nổi tiếng Anh linh”.

Văn bia đá Vua Lê Lợi

Trong thời gian lưu lại Thác Bờ, vua Lê Lợi đã dùng thanh kiếm thần khắc bài thơ và bài tiểu dẫn lên bia đá. Đó là mỏm đá vô đã được mài nhẵn lưng chừng, nhô cao hơn 4m. Bài thơ đó có nội dung khích lệ tinh thần chiến đấu quả cảm của quân lính và sự anh dũng của người dân nơi đây. Đền Chúa Thác Bờ lúc đó nằm ngay dưới chân văn bia đá này. Vì vậy, văn bia này là một di tích vô cùng quý báu của Đền Chúa.

Năm 1979, nhà nước xây nhà máy thủy điện Hòa Bình, nên năm 1982, trước tình hình bia đá sẽ bị nước nhấn chìm Sở VHTT Hà Sơn Bình đã cắt tách phần bia đá rời khỏi khối đá gốc di chuyển về tại tại Nhà Văn hóa thành phố Hòa Bình để bảo quản. Năm 2002, bia đá được đặt tại Bảo tàng Hòa Bình. Đến năm 2015, tỉnh quyết định đưa bia Lê Lợi về dựng lại tại đền Thác Bờ Vầy Nưa.

Khu văn bia Lê Lợi được xây dựng cách Đền Chúa Thác Bờ Vầy Nưa khoảng 500m. Tấm văn bia của vua Lê Lợi đã được dựng lại. Tấm bia khắc bài thơ chữ Hán được lược dịch như sau:

Gập ghềnh hiểm hóc chẳng từ nan
Già vẫn nguyên còn sắt đá gang
Hào khí nghìn mù đều sạch quét
Tráng tâm bằng núi cũng bằng san.
Biên phòng tất khéo mưu phòng lược
Xã tắc nên trù kế cửu an
Ghềnh thác ba trăm năm lời cổ ngữ,
Như nay dòng thuận chỉ xuôi nhàn.

Phần tựa dẫn của bài thơ trên văn bia được lược dịch như sau:

“Ta đi đánh Đèo Cát Hãn về qua đây, làm một bài thơ nói về đường lối phòng Nhung Địch cho đời sau biết: Man di Mường Lễ mặt người dạ thú, ngạch trở giáo hóa phải tiêu diệt ngay. Nên nghĩ sinh dân thiên hạ, chẳng ngại hiểm trở, lam chướng mà phương lược xuất chinh thì tiến quân bằng đường thủy hai sông Thao, Đà là hơn cả”.

5/5 (1 bình chọn)
Chia sẻ
Chúa Thác Bờ Cover (900 × 600 px)

Nguồn gốc

  • Con gái của một tộc trưởng người Mường ở xã Kim Bôi, Hòa Bình

Phủ / Nơi cai quản

  • Vùng đất người Mường ở Hòa Bình

Danh hiệu

  • Chúa Thác Bờ

Trang phục

  • Áo trắng, quần đen
  • Đeo dây đai xanh
  • Bên hông có xà tích bạc

Nội dung chính

Hình ảnh
Nơi thờ tự
Lễ hội

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

banner APP CHỐN THIÊNG 3 (60X90)