Sơ lược về Hưng Nhượng Vương
Hưng Nhượng vương Trần Quốc Tảng (chữ Hán: 興讓王陳國顙, 1252 – 1313) một tông thất hoàng gia, tướng lĩnh quân sự Đại Việt thời Trần. Ông là con trai thứ ba của Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn và Thiên Thành công chúa. Ông đã cùng cha chỉ huy quân dân đánh quân Nguyên xâm lược vào thời Trần Nhân Tông.
Sự nghiệp
Tháng 12 âm lịch năm Thiệu Bảo thứ 6 (1284), quân Nguyên Mông xâm lược Đại Việt lần thứ hai. Được tin đại quân do Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn chỉ huy thua các trận đánh quân Nguyên ở biên giới và rút về Vạn Kiếp, vua Trần Nhân Tông sai ông cùng Hưng Vũ vương Trần Quốc Nghiễn, Minh Hiến vương Trần Quốc Uất và Hưng Trí vương Trần Quốc Hiện đốc suất 20 vạn quân các xứ Bàng Hà, Na Sầm, Trà Hương, Yên Sinh, Long Nhãn đến hội ở Vạn Kiếp, theo quyền điều khiển của Hưng Đạo vương để chống quân Nguyên. Năm 1289, sau 2 lần đánh bại quân Nguyên, thượng hoàng Trần Thánh Tông, vua Trần Nhân Tông xét công phạt tội, gia phong Hưng Đạo vương làm Đại vương, Hưng Nhượng vương làm Tiết độ sứ.
Tuy nhiên, ông cũng là người từng đưa ra ý kiến với cha đẻ là nên cướp ngôi vua của nhà Trần khi đất nước lâm nguy, chính vì thế ông bị cha đẻ rút gươm định giết, may nhờ có Hưng Vũ vương Trần Quốc Nghiễn biết và vội chạy tới khóc lóc xin chịu tội thay, bấy giờ Trần Quốc Tuấn mới tha.
Năm 1297, vua Trần Anh Tông cử ông đem quân đi đánh sách Sầm Tử. Thời Trần Anh Tông, Hưng Nhượng vương rất ghét Nhập nội hành khiển thượng thư tả bộc xạ Trần Khắc Chung, mỗi khi thấy Khắc Chung thì mắng phủ đầu: “Thằng này là điềm chẳng lành đối với nhà nước. Họ tên nó là Trần Khắc Chung thì nhà Trần rồi mất về nó chăng?”. Khắc Chung thường sợ hãi né tránh.
Ông mất tháng 3 âm lịch, năm Hưng Long thứ 21 (1313). Năm 1314, ông được truy tặng Thái úy.
Trấn giữ Hải Ninh-An Bang
Các quyển chính sử như Đại Việt Sử ký Toàn thư hay Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục không ghi chép nhiều về hành trạng của ông cho nên không thể biết chắc chắn ông có từng sống và chỉ huy quân đội tại khu vực ngày nay thuộc tỉnh Quảng Ninh hay không.
Việc ông từng trấn giữ khu vực này chỉ được chép trong một số sách như Trần triều hiển thánh Chính kinh tập biên do đền Ngọc Sơn Hà Nội khắc in năm 1900, hiện lưu trữ với ký hiệu A.2382 tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm Hà Nội. Trong đó viết rằng: “Quốc Tuấn công cho rằng, con trai tính ưa cương dũng ấy (tức Trần Quốc Tảng), không theo đúng đạo làm con, bèn nổi giận lôi đình, đày ra cửa bể Suất ti tuần thuộc phủ Hải Ninh, lộ An Bang”. Việc này có lẽ bắt nguồn từ Hoàng Việt văn tuyển của Bùi Huy Bích (1744-1818), trong đó tác giả cho rằng Hưng Ninh vương là Trần Quốc Tảng, trong khi An Nam chí lược của Lê Tắc soạn năm 1335 viết rất rõ rằng Hưng Ninh vương Trần Tung là anh họ của Thế tử (chỉ Trần Thánh Tông) và Thế tử mất năm 1290. (Nguyên tác: Qua tháng 2, Thế tử khiến anh họ là Hưng Ninh vương Trần Tung nhiều lần tới xin đầu hàng, có ý làm cho quân ta mệt mỏi rồi ban đêm cho quân cảm tử tới quấy rối các đồn và Năm Canh Dần hiệu Chí Nguyên (1290) Thế tử mất, con là Trần Nhật Tôn kế lập.).
Xét theo phả hệ nhà Trần thì Trần Quốc Tảng chỉ ngang vai và là anh họ của Trần Nhân Tông, phải gọi Trần Thánh Tông bằng chú xưng cháu nên Hưng Ninh vương không thể là Trần Quốc Tảng.
Điển tích
Điển tích chép: “Lúc sắp mất, cầm tay Quốc Tuấn trối trăng lại rằng: “Con không vì cha mà lấy được thiên hạ, thì cha dầu chết cũng không nhắm mắt được!”. Trong bụng Quốc Tuấn vẫn không cho câu nói ấy là đúng. Khi quân Nguyên sang xâm lấn, một mình nắm hết quyền bính trong nước trong quân, có lần Quốc Tuấn đem câu trối trăng của cha hỏi hai người gia nô là Dã Tượng và Yết Kiêu. Hai người can ngăn, nói: “Nếu thi hành kế ấy, dầu có giàu sang được một lúc, mà tiếng xấu để mãi đến ngàn đời. Đại vương bây giờ chả phải đã giàu sang rồi ư? Chúng tôi tình nguyện chết già làm người nô bộc, chứ không muốn làm sự bất trung bất hiếu để cầu may mà được một chức quan, chúng tôi mong học được như người mổ dê tên là Duyệt ở thời Xuân Thu ngày trước”. Quốc Tuấn nghe hai người gia nô nói, vừa cảm động ứa nước mắt vừa khen ngợi.
Có lần Quốc Tuấn giả vờ hỏi dò ý con là Hưng Vũ vương Quốc Nghiễn rằng: “Cổ nhân giàu có cả thiên hạ, để truyền cho con cháu về sau, việc ấy con nghĩ thế nào?”. Quốc Nghiễn thưa rằng: “Việc ấy đối với người khác họ cũng không nên làm, huống chi là người cùng một họ”. Quốc Tuấn rất lấy làm phải; sau lại đem câu ấy hỏi con thứ là Hưng Nhượng vương Quốc Tảng, Quốc Tảng tiến thẳng đến, nói: “Tống Thái Tổ là một người làm ruộng, chỉ nhờ gặp thời vận mà lấy được thiên hạ”. Quốc Tuấn liền tuốt gươm ra kể tội rằng: “Những người bầy tôi phản loạn chính là do những đứa con bất hiếu mà ra”. Nói rồi có ý muốn giết đi. Quốc Nghiễn vội chạy ra kêu khóc xin nhận tội thay, mãi sau mới được Quốc Tuấn tha cho. Khi Quốc Tuấn sắp mất, bảo Quốc Nghiễn rằng: “Sau khi ta chết, đậy nắp áo quan đâu đấy xong rồi, sẽ cho Quốc Tảng vào viếng khóc”.
Trong cuốn “Trần triều hiển thánh Chính kinh tập biên“, in năm Thành Thái (1900) có chép như sau: “Quốc Tuấn công cho rằng, con trai tính ưa cương dũng ấy (tức Trần Quốc Tảng), không theo đúng đạo làm con, bèn nổi giận lôi đình, đày ra cửa bể Suất Ti Tuần thuộc phủ Hải Ninh, lộ An Bang”. Đây cũng không phải chính sử nhưng tạo ra một hướng để có thể đoán định rằng giữa cha con Quốc Tuấn – Quốc Tảng có thể những bất đồng và tranh cãi gay gắt đến mức khó làm việc chung. Chứ còn dựa vào điển tích nói rằng Quốc Tảng có ý xui cha làm Triệu Khuông Dẫn (tạo binh biến Trần Kiều để cướp ngôi nhà Hậu Chu) thì không thỏa đáng.
Năm 1313, Trần Quốc Tảng qua đời và được triều đình trung phong là thái úy. Đó là cái kết đẹp cho một danh tướng có công trong lịch sử chống Nguyên. Nhưng vì điển tích không đáng tin cậy trên mà sau này, hậu thế vẫn cứ nhớ đến chuyện ông mang tư tưởng phản nghịch.
Vinh danh
Ông được thờ tại một số nơi như Đền Cửa Ông (phường Cửa Ông, thành phố Cẩm Phả, Quảng Ninh), miếu thờ tại đình Tả, xã Trác Châu (nay là thôn Trác Châu, xã An Thượng, thành phố Hải Dương), Văn Miếu (hay còn gọi là Văn Chỉ Linh Khê) thuộc thôn Linh Khê, xã Thanh Quang, huyện Nam Sách, đình Phúc Xá A, xã Cẩm Phúc, huyện Cẩm Giàng.
Trần Quốc Tảng cũng được thờ ở di tích chùa Đẩu Long, phường Tân Thành, thành phố Ninh Bình, Ninh Bình tương truyền ông từng có thực ấp ở đây.
Tên ông được đặt cho nhiều đường phố tại các thành phố trên khắp Việt Nam như Hạ Long (từ đường Trần Hưng Đạo đến phố Vạn Xuân), Cẩm Phả (từ đường Lý Thường Kiệt đến đường Hoàng Quốc Việt), Móng Cái, Bắc Ninh, Nam Định, Long Xuyên,…
Tham khảo
-
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BA%A7n_Qu%E1%BB%91c_T%E1%BA%A3ng
-
https://1thegioi.vn/can-minh-oan-cho-con-trai-hung-dao-vuong-bi-vu-toi-phan-nghich-17282.html