Tên gọi
Ông vốn là một nhà lý luận. Vì luận “nhĩ căn” mà nổi tiếng thế nhân. Cái gọi là “nhĩ căn” chính là một trong số lục căn bao gồm: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Lục căn là khí quan chủ yếu để chúng ta nhận thức thế giới. Muốn thành Phật, lục căn phải thanh tịnh. Trong lục căn thì nhĩ căn sinh ra nhận thức. Cho nên nhĩ căn thanh tịnh là quan trọng nhất. Bởi vì vị La hán này có nhĩ căn thanh tịnh nhất nên khi tạc tượng trong Phật giáo thường đắp hình dáng của ông thành hình nhĩ căn. Vì vậy, người đời gọi ông là “Oạt Nhĩ La Hán”.
Sự tích
Na Già Tê Na Tôn Giả, hay Khoái Nhĩ La Hán, ở sườn núi non rộng rãi, tai lớn để nghe mọi chuyện, giữ lòng thanh tịnh. Tranh tượng của Ngài mô tả vị La Hán đang ngoáy tay một cách thú vị. Mọi âm thanh vào tai đều giúp cho tánh nghe hiển lộ, rất thường trụ và rất lợi ích. Từ nhĩ căn viên thông phát triển thiệt căn viên thông, trở lại dùng âm thanh thuyết pháp đưa người vào đạo, đó là ý nghĩa hình tượng của tôn giả Na Tiên.
Giúp vua trở thành vị quốc vương anh minh
Tôn giả Na Già Tê Na là vị La Hán thứ mười hai trong mười tám vị La Hán. Hiện tại, ngài đang cùng một ngàn hai trăm vị đệ tử trú tại núi Bán Độ Ba. Trong kinh, tên ngài được gọi tắt là Na Tiên. Thật ra hai tên này chỉ là một nhưng do phiên âm khác nhau. Tôn giả sinh ra và lớn lên ở phía bắc Ấn Ðộ, nhằm thời vua Di Lan cai trị.
Vua Di Lan là người Hy Lạp thâm tín Phật pháp. Do đó, vua thường lui tới Na Tiên thỉnh vấn Phật pháp. Là một người bác học đa văn, bản thân lại khắc khổ tu tập nên Tôn giả chứng quả A La Hán rất sớm.
Có lần, vua Di Lan hỏi: Thưa tôn giả! Ngài là bậc thánh xuất gia chứng quả, vậy còn hàng Phật tử chúng tôi không xuất gia rốt cuộc có thể đắc quả A la Hán không? Na Tiên không do dự đáp, đương nhiên là có thể. Bất kỳ người nào chỉ cần chịu nghiên cứu nghĩa lý Phật pháp, tinh tấn tu hành trang nghiêm, lâu ngày đạo hạnh ắt tự cao thâm, lúc đó lo gì mà không chứng quả! Vua bán tín bán nghi hỏi lại xem có thật vậy hay không bởi vua thấy các bậc A La Hán hầu như toàn bộ đều là người xuất gia.
Na Tiên đáp, vì người xuất gia tu hành ít bị các tạp niệm thế gian chi phối nên dễ thành tựu hơn. Vua Di Lan nghe nói, đối với người lúc sắp lâm chung chỉ cần chí thành niệm Phật sẽ được vãng sanh cực lạc, không bị đọa địa ngục thì cảm thấy nghi ngờ nên không tin pháp môn niệm Phật.
Na Tiên liền giảng giải, giả sử có người lấy một viên đá ném xuống nước, viên đá đương nhiên sẽ chìm! Còn nếu đem viên đá thả trong thuyền thì đá sẽ không chìm. Đó là vì đã có thuyền chở! Đức Phật A Di Ðà từng phát đại nguyện làm thuyền từ cứu độ chúng sanh. Do đó, nếu chúng ta nhất tâm niệm danh hiệu Ngài thì Ngài sẽ phóng quang tiếp dẫn về thế giới Tây phương cực lạc không còn bị trầm luân trong biển khổ.
Vua Di Lan ngộ ra ý nghĩa, cảm phục ví dụ của ngài, nó đã giúp vua hiểu được pháp môn niệm Phật thật thù thắng vi diệu, là chỗ dựa vững chắc không chút hư dối. Cách mấy ngày sau, vua lại đến thăm và hỏi một vấn đề khác: Thưa tôn giả! Ngài chưa chứng Niết Bàn sao biết Niết Bàn là cảnh giới an lạc giải thoát. Tôn giả thưa rằng, tuy tôi chưa chứng Niết Bàn nhưng chư Phật quá khứ đều nói Niết Bàn là cảnh giới an lạc giải thoát nên tôi biết.
Ðiều đó liệu có đáng tin không? Ðáng lắm chứ đại vương! Tôi xin hỏi đại vương, chặt tay chân có đau không? Vua đáp, đương nhiên sẽ đau. Từ trước tới giờ ngài chưa bị chặt tay chân sao biết chặt tay chân là đau? Vì trẫm thấy người bị chặt tay, chặt chân họ ngã nhào xuống đất kêu la rên xiết thống thiết nên trẫm biết. Cũng vậy đó, đại vương! Ðức Phật là bậc đã thành Phật. Ngài nói Niết Bàn rất an lạc, tất nhiên là đáng tin lắm chứ.
Vua Di Lan cười liễu ngộ và càng cảm phục sự đa tài bác học của Na Tiên. Vì thế, họ trở thành đôi bạn chí thân. Cuối cùng vua xin quy y làm đệ tử Na Tiên. Vào một buổi chiều xuân ấm áp, hoa nở ngát hương, vua lại đến thỉnh giáo Na Tiên. Họ ngồi dưới gốc tùng đàm đạo với nhau rất vui vẻ tâm đầu ý hợp.
Vua nói mình luôn thắc mắc không hiểu vì sao cũng là người mà có kẻ sống lâu, người chết yểu, kẻ đẹp, người xấu, kẻ giàu, người nghèo, kẻ thông minh, người ngu dốt? Tôn giả đáp, ngài xem cũng là nho nhưng lại có trái ngọt, trái chua, trái to, trái nhỏ, trái tròn, trái méo, trái đen, trái hồng, nguyên nhân là do hạt giống khác nhau.
Cũng vậy, con người vì chỗ tạo nghiệp lành dữ sai khác nên quả báo chiêu cảm không giống nhau. Vua Di Lan nghe xong vội sụp lạy để tỏ niềm tôn kính. Nội dung đàm luận Phật pháp giữa Na Tiên và vua Di Lan được người đời sau kết tập, viết thành quyển kinh gọi là “Kinh Na Tiên tỳ kheo”.
Ðây là vị La Hán duy nhất trong mười tám vị La Hán có kinh sách lưu truyền đến đời sau. Nhờ sự chỉ dạy của Na Tiên mà cuối cùng vua Di Lan trở thành một quân vương anh minh, dốc lòng ủng hộ Phật pháp, khiến Phật giáo ngày càng huy hoàng rực rỡ.
Tham khảo
- https://baophapluat.vn/khoai-nhi-la-han-vi-la-han-duy-nhat-co-kinh-sach-luu-truyen-post357667.html
- https://www.chogombattrang.vn/bo-tuong-thap-bat-la-han/la-han-khoai-nhi-n-gasena.html
- https://xuonggomsuviet.vn/san-pham/thap-bat-la-han-la-han-khoai-nhi/
- https://damynghenonnuocdn.com/tuong-la-han-khoai-nhi-la-han