Quan Triệu Tường được cho là hình ảnh của Quan Lớn Đệ Thập – một trong mười vị tướng của Vua Cha Bát Hải Động Đình trong tín ngưỡng Tứ Phủ. Ông được tôn là Quan thứ 10 trong hàng Lục Phủ Tôn Ông và hay được thỉnh đến sau hàng Ngũ Vị Tôn Quan.
Thân thế
Ngài Nguyễn Hoàng là người Gia Miêu ngoại trang, huyện Tổng Sơn, phủ Hà Trung, xứ Thanh Hoa. Ngài sinh ngày Bính Dần, tháng Tám, năm Ẫt Dậu (1525), là con trai thứ hai của Ngài Nguyễn Kim (Cam) – người có công tôn lập Trang tông Dụ hoàng đế, húy là Ninh lên ngôi vào năm 1533 mở đầu thời kỳ Lê Trung Hưng, được vua Lê tôn là Thượng phụ Thái sư Hưng quốc công, chưởng nội ngoại sự, sau này được triều Nguyễn suy tôn là Triệu tố Tĩnh Hoang đế.
Lịch sử
Khi anh trai bị hãm hại, nghe tiếng Trạng nguyên Nguyễn Bỉnh Khiêm là người giỏi về thuật sổ, từng làm tới chức vị Thái Bảo trong triều Mạc, Ngài Nguyễn Hoàng liền bí mật sai người tới hỏi về kế sách giữ mình thì được Trạng khuyên:
“Hoành Sơn nhất đái
Vạn đại dung thân”
Nghĩa là một dải Hoành Sơn có thể dung thân muôn đời. Hiểu ỷ, Ngài nhờ chị gái là Ngọc Bảo nói với Trịnh Kiểm tâu lên vua Lê để xin vào trấn đất Thuận Hóa.
Mùa Đông, tháng Mười, năm Mậu Ngọ (1558), Ngài vâng mệnh vua Lê, Ngài đem theo những người bộ khúc đồng hương ở Tổng Sơn và những người nghĩa dũng xứ Thanh Hoa lên đường vào trấn thủ đất Thuận Hóa. Ngài vỗ về quân dân, thu dùng hào kiệt, sưu thuế nhẹ nhàng, được dân mến phục, bẩy giờ thường được gọi là chúa Tiên. Nghiệp đế dựng nên, thực là xây nền từ đẩy.
Tháng 5 năm Nhâm Thìn (1592), Ngài đem binh quyền ra Đông Đô yết kiến vua Lê, được phong làm Trung quân đô đốc phủ tả đô đốc chưởng phủ sự Thái úy Đoan quốc công. Ngài đã có nhiều công lao giúp nhà Lê trong việc tiễu trừ nhà Mạc. Ông là người đã đem quan truy đuối họ Mạc đến tận đất Cao Bằng. Tháng 5 năm Canh Tý (1600), Ngài đem cả tướng sĩ thuyền ghe bản bộ đi đường biển trở về Thuận hóa. Từ đẩy Ngài và các thế hệ con cháu kế tiếp liên tục mở rộng bờ cõi về phía Nam, xây dựng nên một đất nước thống nhất dưới quyền của Vương triều Nguyễn. Tháng 6, ngày Canh Dần, năm Quý Sửu (ngày 03 tháng 6 ẲL năm 1613), Ngài yếu mệt, cho triệu hoàng tử thứ 6 và các thân thần đến trước giường căn dặn rằng:
“Đất Thuận Quảng phía Bắc có núi Ngang (Hoành Sơn) và sông Gianh (Linh Giang) hiểm trở, phía Nam có núi Hải Vân và núi Đá Bia vững bền. Núi sẵn vàng sắt, biển có cá muối, thật là đất dụng võ của người anh hùng. Nếu biết dạy dân luyện bỉnh để chổng chọi với họ Trịnh thì đủ xây dựng cơ nghiệp muôn đời…”.
Ngày ấy Ngài băng, hưởng thọ 89 tuổi. Ban đầu thì an táng ở núi Thạch Hãn (xã thuộc huyện Hải Lăng, Quảng Trị), sau cải táng ở núi La Khê (xã thuộc huyện Hương Trà, Thừa Thiên-Huế; năm Minh Mệnh thứ 2, phong núi ẩy làm núi Khải Vận).
Công trạng
Trong suốt 55 năm cai trị Thuận – Quảng, nhẫn nhịn để chờ thời cơ, lập chí lớn, gây dựng cơ nghiệp lâu dài để lại cho con cháu mai sau, Ngài vừa là một vị tướng mưu lược, vừa là một vị Chúa khôn ngoan lại có lòng nhân đức, thu phục hào kiệt, vỗ về dân chúng và lo phát triển kinh tế, mở rộng bờ cõi đất nước xuống phía nam, mở đầu cho việc hùng cứ phương nam của 9 chúa Nguyễn, tạo tiền đề cho việc thành lập Vương triều nhà Nguyễn bao gồm 13 vua;
Ngài là người có tầm nhìn của một nhà chiến lược xuyên thế kỷ: Ngài hướng ra Bắc mong khôi phục nhà Lê, hướng vào Nam để mở mang bờ cõi; hướng ra các đảo trên biển Đông xác lập chủ quyền quốc gia; mở mang giao thương quốc tế, lập nên các khu thương mại tự do để làm cho Đàng Trong giầu mạnh; tin dùng người hiền tài, vỗ về khoan thư sức dân cho nên Ngài được dân chúng Thuận Quảng cảm mến, thường gọi Ngài là Chúa Tiên.
Ngài được các vua triều Nguyễn sau này suy tôn là Thái Tố Gia Dụ Hoàng Đế, lăng gọi là Trường Cơ.
Quan hoàng Triệu Tường – ngài Nguyễn Hoàng, vị Nhân thần có nhiều công lao trong sự nghiệp xây dựng và mở mang bờ cõi mở đầu cho việc hùng cứ phương nam của 9 chúa Nguyễn, tạo tiền đề cho việc thành lập Vương triều bao gồm 13 vua nhà Nguyễn.
Nhà Nguyễn – bao gồm cả các chúa Nguyễn và các vua Nguyễn – đã để lại một di sản lớn lao nhất cho dân tộc là một giang sơn đất nước trải rộng trên lãnh thố thống nhất từ Bắc chí Nam, bao gồm cả đất liền và các hải đảo trên biển Đông.
Trên lãnh thổ đó là một di sản văn hóa đồ sộ bao gồm cả văn hóa vật thể và phỉ vật thể. Quần thể di tích cổ đô Huế đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới từ 11/12/1993 và đến ngày 07/11/2003 Nhã nhạc cung đình Huế lại được công nhận là kiệt tác truyền khẩu và di sản văn hóa phỉ vật thể của nhân loại. Hội An cũng là một cảng thị tiêu biểu và khu di tích phố cổ Hội An cũng đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới vào ngày 04/12/1999. Chưa có một thời kỳ lịch sử nào để lại cho dân tộc ba di sản văn hóa được thế giới công nhận và tôn vinh với những giá trị mang ỷ nghĩa toàn cầu như vậy.
Khi sinh thời Ngài là một vị tướng lĩnh, một vị quan lớn, một vị Chúa tài năng, đức độ, trí dũng song toàn có nhiều công lao to lớn và căn bản với đất nước. Khi mất Ngài là một vị Nhân thần anh linh luôn phù hộ cho nhân dân và xã tắc, đó là Quan Hoàng Triệu Tường – ngài Nguyễn Hoàng, đức Thái tố Gia dụ Hoàng đế, vị Chúa và là vị Nhân thần mãi trường tồn trong đời sống tâm linh của nhân dân và luôn được khắc ghi những công lao to lớn của Ngài trong lòng dân tộc Việt Nam.
Địa điểm thờ tự
Hiện nay ở miền Bắc chỉ còn thấy 2 nơi có đền thờ Quan Hoàng Triệu Tường:
- Đền Hoàng ở xã Liên Mạc, huyện Từ Liêm, Hà Nội. Tương truyền đền được xây lên để thờ Ngài ngay trên đất Ngài đóng quân khi Ngài ở Đông Đô giúp vua Lê đánh nhà Mạc.
- Đền Quan Hoàng Triệu Tường ở đất Triệu Tường xưa (nay là làng Gia Miêu, xã Hà Long, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa).
Tham khảo
- Đạo mẫu tứ phủ: http://daomautuphu.com/Than-tich/Hang-Thanh-Quan/Hoi-dong-Thong-phu-Ton-quan.htm