Giới Thiệu
Quan ngũ hổ là một trong những vị quan binh của nhà Thánh.
Quan ngũ hổ được thờ ở hạ ban, trong quan niệm dân gian hổ là vị chúa cai quản rừng núi, hình tượng hổ biểu tượng cho sức mạnh thiêng liêng, diệt trừ tà ma, trấn giữ các phương, là thần linh canh cửa ở các ngôi đền, đem lại sự cân bằng cho ngũ phương trời đất. Ngũ Hổ Thần Quan bao gồm năm vị với năm màu sắc khác nhau, danh xưng cấu trúc theo thứ tự: Ngũ Phương – Can – Ngũ Hành – Ngũ Sắc.
Trong đó Bạch hổ được thờ nhiều nhất tại điện của các thầy pháp. Bên trong thờ ngũ dinh ngũ hổ bên ngoài trấn bạch hổ, ngoài cổng nữa trấn kim quy. Trong những đàn nặng âm, thường khi vào bài sai Ngũ Dinh Ngũ Hổ sẽ khao thỉnh bạch hổ trước.
Quan ngũ hổ gồm những vị nào?
Ngũ là 5, vậy Quan ngũ hổ gồm có 5 vị là:
– Đông Phương Giáp Ất Mộc Đức Thanh Hồ Thần Quan: hổ xanh, trấn phương Đông (Mộc khu).
– Nam Phương Bính Đinh Hỏa Đức Xích Hổ Thần Vương: hổ đỏ, trấn phương nam (Hỏa khu).
– Trung Ương Mậu Kỷ Thổ Đức Hoàng Hổ Thần Quan: hổ vàng, trấn phương trung tâm (địa khu).
– Tây Phương Canh Thân Kim Đức Bạch Hổ Thần Quan: hổ trắng trấn phương Tây (Kim khu).
– Bắc Phương Nhâm Quý Thủy Đức Hắc Hổ Thần Quan: hổ đen, trấn phương Bắc (thủy khu).
Như vậy, các Ngài trấn giữ ngũ phương tuân theo quy luật ngũ hành: Hoàng Hổ (màu vàng – hành thổ) ở vị trí chính giữa ứng với trung ương chính điện, Thanh Hổ (màu xanh – hành mộc) ứng với phương Đông, Bạch Hổ (màu trắng – hành kim) ứng với phương Tây, Xích Hổ (màu đỏ – hành hỏa) ứng với phương Nam, Hắc Hổ (màu xám đen – hành thủy) ứng với phương Bắc.
Hình tượng Ngũ Hổ không chỉ tượng trưng cho ngũ hành với mối quan hệ tương sinh, tương khắc trong vũ trụ mà còn để thể hiện quyền uy của mỗi vị thần trong phép nhà thánh. Trong đó, Hoàng Hổ tướng quân giữ vai trò trưởng trung cung, có nhiều quyền phép, trấn giữ điều lệnh các phương. Ông là vị lãnh chúa cao nhất, thâu tóm mọi uy quyền, quyết định âm phù dương trợ cho dân gian.
Thần tích
Sự tích thờ thần hổ còn lưu truyền nhiều ở vùng Thanh – Nghệ – Tĩnh như sau: vào thời vua An Dương Vương, người Việt còn đóng khố, cởi trần, định cư ở vùng đồng bằng và trung du, làm nghề nông và săn bắn.
Ở làng nọ có một ông lão nhà nghèo, quanh năm vất vả mà vẫn không đủ ăn, không làm được nhà ở, ông phải lên rừng đốn nứa đem về làm bè và dựng thành lều trên sông Lam, ngày ngày tảo tần đơm đó và đưa đò kiếm sống. Vùng này có nhiều hổ dữ, chúng thường bắt người ăn thịt. Một hôm có đoàn người lên rừng làm rẫy, gặp năm con hổ đang ngồi rình trên hòn đá ven đường chờ người đi qua để bắt. Ông lão đang chống bè trên sông trông thấy, liền kêu lớn cho đoàn người quay lại. Nghe tiếng động, hổ liền đuổi theo bắt được một người và xé xác ăn thịt. Người xấu số đó lại chính là cha của ông lão chèo đò.
Lần khác, ông lão chèo bè đi đỗ đó trên sông. Một con hổ xám chờ ông lão đến gần rồi nhảy xuống bè bắt ông. Nào ngờ bè nứa bị choãi ra và một chân sau của hổ bị kẹp chặt lại. Hổ càng giãy thì chân càng lún sâu xuống và bị nứa xước, máu chảy đầm đìa. Hổ đau đớn gầm lên náo động cả khu rừng, muông thú đều hoảng sợ bỏ chạy tán loạn.
Trong khi đó, ông lão hết sức bình thản, một tay cầm con dao, một tay cầm bó đuốc đến bên con hổ và nói: “Nhà ngươi dòng dõi trên thượng giới, xuống hạ giới sinh sống sao nỡ bắt con người để ăn thịt? Ta đã già yếu, xin hiến thân cho ông và xin từ nay trở đi ông đừng giết hại con người nữa”. Nói đoạn, ông cầm dao chặt dây nẹp bè cho bung nứa ra và lấy tro thấm dầu hỏa bôi vào vết thương cho cầm máu. Hổ cảm kích, hai chân sau quỳ xuống, hai chân trước đứng chầu cảm tạ hồi lâu rồi mới chạy vào rừng.
Nhưng rồi hổ xám vẫn thường lui tới ven đường, nơi có người qua lại để bắt ăn thịt. Một hôm hổ xám vồ trúng ông lão đang đỗ đó. Khi kéo xác lên bờ, nó mới nhận ra ân nhân của mình. Hổ hối hận, kêu gào ầm ĩ cả khu rừng. Sáng hôm sau dân làng đi làm, thấy xác ông lão bên đường và nhìn dấu vết biết là ông bị hổ vồ.
Dân làng thương xót, chôn cất tử tế và tôn ông làm thần thổ địa của làng. Đêm đêm, con hổ xám về chầu trước mộ ông, kêu la thảm thiết và cuối cùng gục chết, hóa thành hòn đá bên mộ. Từ đó, các loài muông thú không đến phá hoại và dân làng làm ăn trúng mùa liên tiếp. Đặc biệt, hổ xám được dân làng thờ cúng và tôn là ông hổ, thần hổ, ông ba mươi. (Những con hổ đá đặt ở đền chùa, miếu mộ… đều nằm trong thế quỳ, miệng há rộng là nhắc lại sự tích trên).
Trên bức bình phong tại cổng các đền chùa, người ta thường đắp một con hổ đang bước xuống những bậc đá gập ghềnh. Với tư thế đó, hổ biểu hiện cho sức mạnh của “thế giới Diêm Vương”. Người ta còn thờ ngũ hổ để tượng trưng cho năm phương: hoàng hổ ở giữa gọi là trung phương, xích hổ là phương nam, lục hổ là phương đông, bạch hổ là phương tây và hắc hổ là phương bắc. Tất cả đều mang ý nghĩa cầu mưa và cầu cho mọi sự sinh sôi, phát triển.
Thờ phụng
Mặc dù Quan Ngũ Hổ đều được đặt ban thờ tại hạ ban trong mỗi đền điện nhưng các ông cũng có đền thờ chính riêng giống như những vị thánh khác. Nổi tiếng trong những ngôi đền này có đình Quới Sơn – Bến Tre và đình Bình Thủy – Cần Thơ.
Lễ quan Ngũ Hổ
Cứ vào dịp đầu xuân năm mới hoặc vào mùa lễ hội, khách thập phương lại tụ hội về các đền thờ mang theo lễ vật dâng thần thánh cầu một năm mới thuận hòa bình an, êm ấm, vạn sự tốt tươi. Theo đó, con hương cũng thường sắm một mâm lễ vật dâng Quan Ngũ Hổ tỏ lòng thành kính.
Khác với những mâm lễ dâng các vị thánh khác, mâm lễ Ngũ Hổ Tướng cần có thêm thức lễ như một túi muối, gạo, 5 quả trứng sống, …
Hầu giá quan Ngũ Hổ
Những dịp hầu Quan Ngũ Hổ thường là những dịp tổ chức tiệc nhà Trần và những dịp cuối năm. Do nhiều quan niệm rằng Quan Ngũ Hổ là ngũ hổ tướng Nhà Trần. Đồng thời cũng theo quan niệm này, không nên hầu ông hổ đầu năm vì ông về ăn hết sạch lộc nên chỉ hầu tạ cuối năm. Dù vậy vẫn có người hầu khai điện đầu năm để ngài trừ tà sát quỷ cho cả năm an lành.
Tham khảo
1. https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BB%A5c_th%E1%BB%9D_h%E1%BB%95
2. https://vanhoatamlinh.com/su-tich-quan-ngu-ho-trong-tin-nguong-tho-tu-phu/
3. https://tamlinh.org/quan-ngu-ho-la-ai.html