Giới thiệu
Chùa Hội Linh còn gọi là Hội Linh Cổ Tự, thuộc dòng Lâm Tế tông; hiện tọa lạc trong một con hẻm ở số 314/36 đường Cách mạng Tháng Tám (cách lề đường khoảng 200 m), thuộc phường Bùi Hữu Nghĩa, quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ, Việt Nam.
Ngày 21 tháng 6 năm 1993, chùa đã được Bộ Văn hóa – Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia, theo Quyết định số 774/QĐBT/1993.
Lịch sử
Chùa Hội Linh được Hòa thượng Thích Khánh Hưng (? – 1914) khởi lập vào ngày rằm tháng 2 (âm lịch) năm Đinh Mùi (1907), trên phần đất do ông Phạm Văn Bường (pháp danh Thông Lý) và bà Nguyễn Thị Tám (pháp danh Thông Ngọc) cúng dường. Ban đầu, chùa được cất đơn sơ bằng tre lá, và có tên là Hội Long tự. Vì chùa nằm ở ngọn một con rạch nhỏ, nên còn được gọi là chùa Xẽo Cạn.
Sau khi Hòa thượng Khánh Hưng viên tịch (1914), Hòa thượng Thích Hoằng Đạo (1878 – 1922) kế vị trụ trì, và đã cho xây dựng lại ngôi chùa ngay năm đó, với vật liệu kiên cố (gạch, ngói) và đổi tên là Hội Linh Tự (về sau được gọi là Hội Linh Cổ Tự, khi chùa tồn tại đã lâu)
Năm 1922, Hòa thượng Thích Trí Đăng (? – 1944) kế vị trụ trì cho đến năm 1944.
Kế tiếp là Thượng tọa Thích Pháp Thân (1903 – 1970) đến trụ trì chùa. Năm 1945, chùa thực hiện lệnh “tiêu thổ kháng chiến” đã tự thiêu hủy một phần, để quân Pháp không đến chiếm đóng. Sau đó, chùa được trùng tu, và về sau còn được sửa chữa nhiều lần. Năm 1967, Sư được tấn phong chức danh Hòa thượng. Năm 1970, Hòa thượng Pháp Thân viên tịch. Sư đệ của Sư là Hòa thượng Thích Pháp Hiện kế vị trụ trì chùa Hội Linh đến năm 1972 thì chuyển sang tu nơi khác. Thay thế là Thượng tọa Thích Chơn Đức (1925 – 2011, là đệ tử Hòa thượng Thích Pháp Thân). Năm 1998, Sư được tấn phong chức danh Hòa thượng và tiếp tục trụ trì chùa cho đến hết cuối năm 2005. Vì tuổi cao sức yếu, Sư đã giao trách nhiệm cho Thượng tọa Thích Thiện Pháp thay Sư điều hành Phật sự. Năm 2011, Hòa thượng Chơn Đức viên tịch… Năm 2017, Thượng tọa Thích Thiện Pháp được tấn phong giáo phẩm Hòa thượng.
Kiến trúc
Từ ngoài vào là cổng tam quan vừa hiện đại vừa cổ kính, dưới tán 2 cây đa cổ thụ rợp bóng, dãy tường rào tạo hình cánh cung, cổng chính vươn ra phía trước, trên nóc các cổng đều được lợp mái cong giả ngói âm dương màu xanh. Mỗi cổng đều có 2 câu đối bằng chữ Hán đắp nổi. Cổng chính lợp 2 lớp mái ngói, nóc có gắn lưỡng long tranh châu bằng đất nung màu xanh, hai bên trụ cột có 2 câu đối bằng chữ Hán:
“ Hội xuất Thần Châu ngũ bá cao tăng thường tự tại
Linh minh thánh cảnh tam thiên đại giác nhiệm Như Lai”
Sau cổng chính là ao sen hình bán nguyệt rộng khoảng 25m2, xung quanh trồng những cây dương liễu rũ nhánh soi bóng dưới ao. Giữa ao có tượng đài lộ thiên Quán Thế Âm Bồ Tát cao gần 3 mét. Cổng trái là lối đi chính vào chùa. Bên trái có Bảo tháp to cao hơn 10 mét, là nơi yên nghỉ của cố Hòa thượng Thích Pháp Thân. Bên trong có thêm Bảo tháp cao hơn 8 mét là nơi yên nghỉ của cố Hòa thượng Thích Hoằng Đạo và 2 tháp nhỏ của Hòa thượng Khánh Hưng, Hòa thượng Trí Đăng. Bên phải là một khoảng sân khá rộng, trên sân có miếu Ngũ Hành bên trái, Thổ Thần bên phải, ở giữa trồng nhiều hoa kiểng và nhiều chậu cây bonsai sum suê tạo một không gian an lành.
Phía trước mặt ngôi chánh điện phần trên là ba gian cổ lầu, ở giữa Đức Phật A Di Đà, bên phải tượng Đại Thế Chí Bồ Tát, bên trái tượng Quán Thế Âm Bồ Tát. Trên mái chia làm 3 nóc được lợp bằng vật liệu xi măng đúc thành hình vảy cá, nóc giữa mái tạo dáng tròn cạnh lục giác, trên đỉnh là hình búp sen, các đầu đao gắn cách điệu dây lá; 2 nóc hai bên đỉnh là bầu rượu, mái tạo hình phẳng cạnh tứ giác uốn cong lên, các đầu đao cũng gắn cách điệu dây lá (phần kiến trúc này đều do sự khởi ý chuẩn bị của HT. Pháp Thân và HT.Chơn Đức là người thực hiện hoàn thành vào năm 1972). Phần dưới, ở giữa 2 cửa ra vào chánh điện còn an trí thêm tượng Đức Phật A Di Đà.
Ngôi chánh điện rộng 288m2, nóc cao hơn 9 mét, có 2 cửa chính đi vào, chia thành 3 gian. Bên trong là 3 điện thờ trung tâm, có treo 3 bức hoành phi khắc bằng chữ Hán ở giữa là “Hội Linh Tự”, bên trái “Tam vô tư địa”, bên phải “Thưởng thiện phạt ác”.
Điện thờ chính ở giữa, phía trước có khung bao lam chạm khắc tuyệt mỹ cây, hoa, lá, rồng, phụng, hưu… sơn son thếp vàng, hai bên có 2 câu liễn đối: “Phật nhựt tăng huy tự hán vĩnh bình đoan tại thử, Pháp luân thường chuyển duy đường trinh quán đạo vưu thâm”. Bên trong an trí Đức A Di Đà Phật ngồi trên tòa sen cao 1,5 mét. Phía trước hai bên tôn 2 tượng đứng ông Thiện – ông Ác, ở giữa tượng Đức Địa Tạng cưỡi Kỳ Lân. Bậc dưới tôn tượng Đức Thích Ca Đản sanh. Bàn phía dưới trước điện an trí tượng Đức Phật Thích Ca Niết Bàn chiều dài 1,5 mét, 2 đầu bàn xếp chuông mõ; Điện bên trái, an trí Đức Đại Thế Chí Bồ Tát thếp vàng, 2 bên đặt 4 tượng đứng 4 vị thần Kim Cang. Phía trước tôn tượng Ai Đà tiếp dẫn, 2 bên 2 tượng phán quan. Trên tủ thờ trước điện đặt tượng Quan Thánh chúng ngồi; Điện bên phải, an trí Đức Quán Thế Âm Bồ Tát thếp vàng, 2 bên 4 vị thần Kim Cang. Ở giữa đặt 2 tượng trong 10 vị thập điện và 2 tượng nhỏ 2 vị phán quan, phía trước có 1 tượng nhỏ Đức Địa Tạng đứng. Trên tủ thờ trước điện còn có thêm 2 tượng nhỏ Đức Phật Thích Ca ngồi. Ngoài ra, 2 cột hai bên còn có 2 câu liễn đối: “Thiên đường chánh tu ốc lậu đổ thanh thiên, Địa ngục vô môn chỉ vị thốn tâm đa ám địa”.
Ở giữa chánh điện là pho tượng Đức Phật Di Lặc Bồ Tát ngồi to, cao 2,5 mét. Phía sau lưng Đức Di Lặc là tháp đèn Dược Sư có 49 ngọn đèn (đèn bóng có tim đốt bằng dầu lửa thắp suốt ngày đêm). Tháp đèn được gia công bằng danh mộc gồm 7 tầng, mỗi tầng 7 ngọn đèn và đều có một Đức Phật Dược Sư an ngự. Phía sau tháp đèn là một khoảng trống nơi hành lễ của sư trụ trì. Đối diện tượng Phật Di Lặc là bàn thờ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni ngồi trên tòa sen, bên dưới có tượng Ngọc Hoàng ở giữa, hai bên tượng Nam Tào, Bắc Đẩu và 2 tượng đứng Đức Hộ pháp, Tiêu diện Đại sĩ.
Phía sau điện thờ chính là gian thờ Hậu Tổ. Ở giữa, đặt tượng thờ Đức Tổ Sư Lạc Ma, bên phải, bên trái thờ các vị tiền bối hữu công hộ trì tam bảo. Cả 3 bàn thờ xếp nhiều bài vị các cố Hòa thượng tiền nhiệm trụ trì bổn tự và các tiền bối đã quá vãng, chạm trổ rất công phu.
Nối tiếp chánh điện, gian thứ hai rộng 144m2, ở giữa đặt bàn thờ Tổ quốc có ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sau lưng bàn thờ Tổ quốc, treo một khung ảnh đen trắng lớn lưu niệm các đồ chúng chụp chung với Hòa thượng Huệ Đăng lúc còn sanh tiền (trong ảnh này có HT.Thích Pháp Thân). Gian này còn được dùng làm nơi tiếp khách. Gian thứ ba là giảng đạo đường là nơi giảng kinh cho đồ chúng trong tự viện (gia giáo), thuyết pháp trong những ngày lễ hội cho đại đa số tăng ni, tín đồ phật tử… Phía trước ngay giữa gian 3 là bàn thờ Đức Phật Chuẩn Đề Bồ Tát. Để tưởng nhớ công lao to lớn của 2 vị Hòa thượng trụ trì đời thứ ba và đời thứ tư, 2 bên bàn thờ Chuẩn Đề an trí 2 bức di ảnh, bên phải là Hòa thượng Hoằng Đạo, bên trái là Hòa thượng Pháp Thân.
Kiến trúc chùa Hội Linh không giống như kiến trúc của các ngôi chùa Phật cổ khác. Từ gian chánh điện đến các gian nối tiếp theo tạo thành một trục thẳng với chiều ngang bằng nhau, chùa được xây dựng bằng vật liệu gạch, xi măng, sắt, gỗ, mái lợp ngói, nền lát gạch tàu. Kết cấu tường gạch,hệ thống vòm mái được nâng đỡ bởi những hàng cột gỗ quý tròn đường kính 25cm có chân đế bằng đá, trụ xi măng. Các vỉ kèo kết cấu đơn giản, làm theo kiểu nhà Trính, các cây trổng được bào láng đặt trên cối hình vuông, hình thang, đầu trổng có hình cánh dơi. Các bao lam nơi chánh điện và các điện thờ được chạm trổ rất công phu. Họa tiết, hoa văn trang trí trong chùa đều theo những quy ước truyền thống: Long Quy Phụng Hưu, Mai Lan Cúc Trúc Sen… Chùa Hội Linh có hơn 100 pho tượng lớn nhỏ bằng nhiều chất liệu khác nhau: đồng, gỗ, xi măng, thạch cao… trong đó có 17 pho tượng bằng gỗ. Các pho tượng thể hiện cách nhìn của nghệ nhân về tỷ lệ người khá chuẩn và tay nghề rất điêu luyện, sắc xảo. Riêng tượng Giám Trai thật sự là một tác phẩm điêu khắc độc đáo.
Giá trị
Chùa được xây bằng vật liệu hiện đại nhưng vẫn giữ được phong cách chùa Việt Nam. Kết cấu tường gạch, hệ thống vòm mái được nâng đỡ bởi những hàng cột gỗ quý tròn đường kính 25 cm có chân đế bằng đá, trụ xi măng. Các vỉ kèo kết cấu đơn giản, làm theo kiểu nhà trính, các cây trổng được bào láng đặt trên cối hình vuông, hình thang, đầu trổng có hình cánh dơi. Các bao lam nơi chánh điện và các điện thờ được chạm trổ rất công phu.. Họa tiết, hoa văn trang trí trong chùa đều theo những quy ước truyền thống: long, quy, phụng, hươu, mai, lan, cúc, trúc, sen,… Bên cạnh giá trị về mặt kiến trúc nghệ thuật, trong chùa còn lưu giữ hơn trăm pho tượng lớn nhỏ rất có giá trị, bằng nhiều chất liệu khác nhau: đồng, gỗ, xi măng, thạch cao…Riêng tượng Giám Trai là một tác phẩm điêu khắc độc đáo. Ngoài ra, các hiện vật quý trong chùa còn có chuông đồng, mõ, bộ binh khí (16 cái) và bộ bàn ghế gỗ cẩn xà cừ.
Đóng góp trong kháng chiến
Chùa Hội Linh là một cơ sở bí mật của lực lượng chống thực dân Pháp kể từ năm 1941, và sau đó là Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa. Các Hòa thượng, tăng ni và bà con phật tử ở đây đã che chở, đùm bọc, nuôi chứa nhiều cán bộ lãnh đạo…Với những công lao ấy, Nhà nước Việt Nam đã trao tặng cho nhà chùa Huy chương Kháng chiến hạng Nhất, và các tăng chúng nhiều huân, huy chương… Đặc biệt, Hòa thượng Thích Pháp Thân được công nhận là liệt sĩ vì đã hy sinh trong sự nghiệp giải phóng miền Nam năm 1970. Ngày nay, chùa là một cơ sở tôn giáo được đông đảo bà con phật tử đến tu học và lễ bái. Ngoài ra, chùa còn tích cực tham gia làm công tác từ thiện xã hội ở địa phương…
Tham khảo
- https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%C3%B9a_H%E1%BB%99i_Linh_(C%E1%BA%A7n_Th%C6%A1)
- https://mientaycogi.com/hoi-linh-co-tu-3908/
- https://baocantho.com.vn/chua-hoi-linh-mot-di-tich-lich-su-van-hoa-quoc-gia-a20440.html