Tên gọi và vị trí
Lăng Minh Mạng (Minh Mệnh) hay còn gọi là Hiếu Lăng, tọa lạc trên núi Cẩm Khê thuộc xã Hương Thọ, thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế, cách trung tâm thành phố Huế 12km. Đây là nơi an nghỉ của vị vua thứ hai triều Nguyễn (1802-1945), thời vua trị vì được coi là thời kỳ thịnh vượng nhất, lăng Minh Mạng được xây dựng từ năm 1840 đến năm 1843 thì hoàn thành.
Diện tích tổng thể quanh lăng là 475 ha, còn riêng phần lăng mộ của vua chiếm 18ha, trong quần thể lăng bao gồm: Tam quan, sân chầu, nhà bia, sân tế, Hiển Đức môn, điện Sùng Ân (thờ vua Minh Mạng và Hoàng hậu), hồ Trừng Minh, Minh Lâu, hồ Tân Nguyệt (trăng non), cổng tam quan Quang Minh Chính Trực, Trung Đạo kiều và cuối cùng là Bửu thành (mộ vua Minh Mạng), xung quanh được trồng rất nhiều cây cối tạo không gian thoáng mát, lăng Minh Mạng là một kiến trúc quan trọng của Quần thể Di tích Cố đô Huế.
Vua Minh Mạng
Vua Minh Mạng tên huý là Nguyễn Phước Đảm còn có tên khác là Nguyễn Phúc Kiểu ông sinh ngày 25 tháng 5 năm 1791 tại làng Tân Lộc, tỉnh Gia Định (nay thuộc thành phố Hồ Chí Minh) và mất ngày 20 tháng 1 năm 1841. Ông là con trai thứ tư của vua Gia Long và mẹ là hoàng hậu Trần Thị Đang, thời điểm ông sinh ra là đang diễn ra chiến tranh Tây Sơn – Chúa Nguyễn (1787).
Từ nhỏ ông hay theo cha là vua Gia Long ra trận, vốn thông minh nên vua cha rất chú trọng việc học hành của ông và cử người giám sát hàng ngày, năm 1815 ngài được phong làm Hoàng Thái Tử và sống tại điện Thanh Hoà.
Năm 1820 vua Gia Long qua đời, Hoàng Thái Tử lên nối ngôi và lấy niên hiệu là Minh Mạng, vì được tiếp xúc với chính trị và vốn thông minh, siêng năng nên ông rất am hiểu việc triều đình. Ngài là vị vua thứ hai dưới triều đại Nguyễn, cai trị nước Đại Nam. Như những gì ghi chép thì Vua Minh Mạng có rất nhiều vợ, có 142 người con gồm 78 hoàng tử, 64 hoàng nữ, vợ chính thất của ông là Tá Thiên Nhân Hoàng Hậu – Hồ Thị Hoa.
Trong suốt thời gian trị vì ông thay đổi rất nhiều việc nội trị, ngoại giao hay cải cách xã hội, từng bước hoàn thiện bộ máy hành chính tại trung ương và các địa phương trong cả nước, với nhiều công lao như cải cách hành chính, mở rộng đất nước… Vua Minh Mạng còn nổi tiếng với việc cấm đạo, xét xử công thần lập quốc, đổi quốc hiệu.
Lịch sử
Vua Minh Mạng là con trai thứ tư của vua Gia Long, tuy không phải là con trưởng nhưng vì nhận thấy ông từ nhỏ đã rất thông minh, ham học nên vua Gia Long đã quyết định truyền ngôi cho ông. Sau khi vua cha Gia Long qua đời vào năm 1820, khi đó vua Minh Mạng 30 tuổi lên nối ngôi theo di chúc vua cha để lại, nhà vua ban chiếu cho lên ngôi cho thần dân trong cả nước được biết.
Theo bản chiếu của vua Minh Mạng có đoạn viết:“Chiếu cho thần dân trong thiên hạ được biết: Trẫm chỉ là người con hiếu thảo nhờ sự bao bọc của tiên đế mà được thừa hưởng tông miếu. Bậc Thánh nhân xưa rủ áo chở che mà giữ được càn khôn, vì thế vận nước vững bền là ở một người nhưng truyền được cái gốc ấy đến muôn đời, âu cũng là mệnh trời mà thần khí quy tụ vậy”.(1)
Quan niệm dân gian thời xưa và đặc biệt là các vua chúa thì khi họ còn sống sẽ chuẩn bị trước lăng mộ và nơi chôn cất mình sau khi chết, họ rất coi trọng mộ phần.
Sau khi lên ngôi được 7 năm vua sai các quan giỏi về địa lý và phong thuỷ trong triều đi tìm hiểu vị trí đất tốt để xây lăng.
Năm 1826 quan giỏi địa lý là Lê Văn Đức đã chọn thửa đất trên núi Cẩm Khê gần ngã ba Bằng Lăng , nơi đây la nơi có dòng sông Hương từ 2 dòng nước Tả Trạch và Hữu Trạch hợp lại làm một. Do vua rất cẩn thận nên còn suy xét thêm về địa điểm này.
Năm 1840 đích thân nhà vua đến núi Cẩm Khê để xem xét địa hình, sau 14 năm lựa chọn và nghiên cứu ông đã đồng ý để xây dựng Lăng ở đây, về phong thuỷ vị trí này có đủ các yếu tố cần thiết để xây dựng sơn phần của Hoàng đế (sông, núi, phong cảnh), thời gian này nhà vua cho đổi tên núi Cẩm Khê thành núi Hiếu Sơn và đặt tên lăng là Hiếu Lăng
Tháng 4 năm 1840 lăng vua Minh Mạng được khởi công xây dựng, để đảm bảo chất lượng lăng được xây theo ý mình vua Minh Mạng là người phê duyệt phác hoạ biểu đồ lăng, kiểm tra từng khâu khi xây dựng.
Ngày 20 tháng 1 năm 1841 sau vài tháng khởi công, lăng Minh Mạng vẫn đang tiếp tục công trình thì vua Minh Mạng đã lâm bệnh nặng và qua đời.
Sau khi vua Minh Mạng qua đời, vua Thiệu Trị (1841-1847) lên ngôi đứng ra cho xây dựng tiếp khu lăng tẩm này theo như bản đồ hoạ mà vua Minh Mạng để lại và đưa thi hài vua an táng ở Bửu Thành.
Năm 1843, gần 3 năm sau khi vua Minh Mạng qua đời Lăng Minh Mạng mới được hoàn thành.
Kiến trúc
Lăng mộ hoàng gia triều Nguyễn là một trong những bộ phận quan trọng trong tổng thể kiến trúc kinh đô Huế – Di sản văn hóa thế giới được UNESCO tôn vinh từ năm 1993. Quy hoạch xây lăng được kết hợp rất hài hoà giữa kiến trúc nhân tạo và cảnh quan thiên nhiên tạo, tạo nên vẻ trang nghiêm không gian tâm linh và không gian sinh thái.
Lăng Minh Mạng là một quần thể kiến trúc có diện tích 18ha còn tổng diện tích cấm địa xung quanh lên đến 475 ha, gồm nhiều công trình lớn nhỏ được nằm trên một trục đường thẳng chính gọi là đường thần đạo, cách xây dựng rất đặc biệt khi bố cục các công trình được nằm cân bằng, đối xứng 2 bên tạo nên vẻ trang nghiêm và trật tự nghiêm ngặt. Kiến trúc làm theo mô hình nhà rường hay còn gọi là nhà cột, các cột kèo gỗ được nối chặt chẽ với nhau theo mô hình chữ đinh, chữ công, được chạm khắc tỉ mỉ, nhà rường thường được làm mái thấp dốc thoải xuống, và lớp mái được chồng lên nhau, cấu trúc nhà rường được coi là di sản đặc trưng của kiến trúc Cố đô Huế.
Tất cả các công trình kiến trúc trong khuôn viên lăng được bao bọc bởi bức la thành cao 3m, lăng bao gồm hai phần: phần mộ và nơi thờ.
Cổng tam quan Đại Hồng Môn
Cổng tam quan là lối dẫn đường đi vào trong lăng, cổng có 3 cửa lớn nhỏ đây là kiến trúc điển hình truyền thống của dân gian thường được xây dựng ở các chùa, đình. Tam quan thường sẽ có một cửa to rộng nhất ở giữa, hai bên là 2 cửa diện tích nhỏ hơn.
Cửa rộng lớn nhất ở giữa gọi là Đại Hồng Môn là lối đi chính được mở duy nhất một lần để đưa quan tài của vua vào trong lăng sau đó được đóng lại, hai cửa nhỏ hơn nằm ở hai bên gọi là Tả Hồng Môn và Hữu Hồng Môn đây là 2 cửa phụ để ra vào, cổng được xây bằng gạch có diện tích rộng 12m và cao 9m. Phần mái cổng được xây theo nhiều lớp mái ngói, có trang trí long vân và cá chép hoá Rồng.
Sân chầu Bi Đình
Sau khi đi qua cổng Đại Hồng Môn là sân chầu rất rộng và thoáng được lát gạch bát tràng , hai bên sân được đặt tượng đá, tượng kỳ lân bằng đồng hai bên, văn quan võ tướng và voi ngựa hầu chầu. Đây là khoảng sân rộng dành cho những người theo hầu vua khi còn sống thường đứng trong những buổi hầu chầu.
Nhà Bia (Phụng Thần Sơn)
Cuối sân chầu tiến vào trong một chút ta thấy xuất hiện nhà Bia được xây theo khối hình vuông, xây theo kiến trúc 3 khối, tầng đầu tiên được tạo thành nhiều bậc thang lên xuống, hai bên thành bậc thang được đắp hình rồng , gạch ốp xung quanh, những bức tường được gắn liền với các khối trụ chạm khắc hoa văn rất cầu kỳ.
Tầng thứ 2 là nhà hình vuông với 4 cửa rộng mở ra 4 hướng có thể đi thông qua nhau, ở tầng thứ 2 này kiến trúc rất đơn giản không trang trí hoa văn mà chỉ được sơn màu vàng, có lớp 4 lớp mái và các góc có gắn đầu Rồng.
Tầng thứ 3 la tầng trên cùng diện tích nhỏ nhất trong 3 tầng nhưng được trang trí hoa văn bao quanh, trên mái có hình Long chầu và quả hồ hô ở giữa.
Tổng thể 3 tầng nhìn rất giống với cấu trúc kim tự tháp, Bên trong nhà bia được đặt tấm bia “Ngự chế Thánh Đức thần công bi”(2) cao 3m được bao quanh bởi hàng rào sắt để bảo vệ, gồm 35 dòng chữ Hán có Nôm, toàn văn ước khoảng 1800 chữ, có hoa văn, không có chữ húy, nội dung bia ca ngợi thân thế sự nghiệp vua Minh Mệnh. Minh Mệnh là con thứ 4 của vua Cao Hoàng đế. Hoàng tổ mẫu là Nhân Tuyên Từ Khánh thái hoàng thái hậu, sinh ra Minh Mệnh vào giờ Dậu ngày 23 tháng 4 năm Tân Hợi tại đất Tân Lộc Gia Định. Lúc bấy giờ Gia Long bắt đầu di chuyển về phái Nam tiến đánh thành Phú Xuân, từ đó khôi phục được thiên hạ. Minh Mệnh đi theo phò tá, trèo đèo lội suối, trải qua bao gian lao, thật là người trí dũng, lập nhiều chiến công hiển hách. Năm Gia Long thứ 15 (1817) được phong làm Thái Tử, năm thứ 18 (1820) vâng di chiếu lên ngôi vua. Minh Mệnh tại vị chuyên cần vào việc chính sự, yêu dân như con, đặt ra kỷ cương cho triều Nguyễn sau này. Đây là văn bia do vua Thiệu Trị soạn thảo.
Khu vực Tẩm Điện
Hiển Đức Môn
Khoảng sân rộng tiếp theo được chia làm 4 cấp bậc cao dần, mỗi cấp được nâng cao hơn 1 bậc, đi qua 4 khoảng sân như thế sẽ đến cửa Hiển Đức Môn, đây là cửa mở lối để dẫn đến Sùng Ân Điện.
Hiển Đức Môn được xây trên 5 bậc thang lên xuống, ở cầu thang được chia làm 4 ngăn mỗi ngăn xây thành ngăn cách, mỗi thành lại được gắn với hình rồng lượn, trên bậc cầu thang có 3 cổng gồm 1 cổng chính và 2 cổng phụ, giống ngôi nhà có 3 gian có 2 cột ở giữa. Xung quanh ngôi nhà được chạm khắc vẽ nhiều hoa văn, hoạ tiết rất tỉ mỉ và chi tiết tạo nên hiệu ứng rất đẹp, tầng dưới và tầng trên được lợp mái ngói vàng, các đỉnh nhọn của nóc mái được gắn các hình Rồng chầu mặt nguyệt.
Điện Sùng Ân
Đây là điện thờ chính nằm trong giữa trung tâm khu tẩm điện, bên trong là nơi thờ vua Minh Mạng và bà tá Thiên Nhân Hoàng Hậu, vì thế đây được coi là nơi cư ngụ linh hồn, hai bên có Đông phối điện và Tây phối điện (là hai dãy điện phụ trước mặt chính điện, mỗi dãy có 3 gian, lợp ngói lưu ly vàng).
Công trình này được đặt trên nền cao, cấu trúc hình vuông tượng trưng cho mặt đất, dựng nhiều cột gỗ chạy quanh vòng điện tổng có 64 cột, Tiền điện có nóc cao 6m, kiến trúc hai mái chồng được sơn son thếp vàng gồm 6 vì kèo tạo nên 5 gian 2 trái.
Hậu điện có 6 vì kèo với 4 cột đưa nóc nhà lên cao 7,36m, trần của hậu điện cao 4m được gắn thành từng ô vuông và chữ nhật, bên trong là vẽ chạm khắc trang trí phong phú và màu sắc thu hút đây là những hình trang trí chạm nổi theo quy định nghệ thuật của cung đình và lăng tẩm.
Bên ngoài được che bởi mái hiên được nối với các cột nhỏ làm trụ làm nổi phong cách riêng biệt kiến trúc các điện thành ở Huế.
Mái ngói chồng diêm được lợp ngói men vàng, điện Sùng Ân chia làm 2 lớp mái tầng dưới tầng trên, trên nóc điện được gắn những hình rồng uốn lượn, chính giữa có hình con vật đội bình hồ lô.
Hoàng Trạch Môn
Cuối sân Điện Sùng Ân là cổng Hoằng Trạch Môn, đây là cổng kết thúc khu vực Tẩm Điện, với kiến trúc cổ điển duy nhất một cổng chính, cửa ra vào hình vòm, trên còn 3 tầng diện tích thu hẹp dần ở phía trên. Tầng trên cùng là có diện tích nhỏ nhất trên mái được kết thúc bằng hình quả bầu ở chính giữa, 3 tầng đều được làm thêm mái ngói, các diềm mái cong vút lên theo kiểu “đầu đao lá mái”.
Cầu Trung Đạo
Qua cửa Hoằng Trạch Môn là lối dẫn đến cầu Trung Đạo, cầu được nối dài bắc qua hồ Trừng Minh đây là hồ tự nhiên do con suối chảy từ núi Cẩm Khê ra sông Hữu Trạch, hồ gồm hai nửa nối thông với nhau ở phía sau Điện Sùng Ân. Cầu Trung Đạo ở giữa 2 cây cầu hai bên là cầu Tả Phù và cầu Hữu Bật, cả 3 cây cầu này đều là đường dẫn đến tòa Minh Lâu và đều có xây thành bảo vệ trên mỗi chiếc cầu. Khi đứng trên cây cầu này ta thấy dưới có hồ nước, xung quanh có cây cối mát mẻ, cây cỏ hoa thơm.
Minh Lâu
Đi qua cây cầu dài là đến sân nghỉ chân, đây là khoảng sân phía trước tòa Minh Lâu, muốn tiến vào trong ta phải bước qua 33 bậc cầu thang, Tòa Minh Lâu gồm 2 tầng 8 mái được dựng trên đồi Tam Tài, trên nền đất cao bao quanh là được xây các thành bảo vệ. Vị trí của Minh Lâu được quy hoạch tương đồng với khu Tẩm Điện, ở vị trí này ta có thể nhìn bao quát được tất cả các hướng của Lăng Minh Mạng.
Mặt trước và mặt sau của toà đều có 3 cửa ra vào làm bằng gỗ, tường bao xây bằng gạch tạo nên độ chắc chắn cho tòa nhà, cũng như kiến trúc giống với các toà khác trong khu, tòa Minh Lâu cũng được xây dựng rất nhiều cột chống đỡ. Trên tầng hai từ toà chính tới lan can đều được làm hoàn toàn bằng gỗ sơn thếp đỏ, cả 2 tầng đều được lợp ngói men vàng, những góc mái không cong vút như những kiến trúc khác mà thoải xuống đất.
Hai Tháp trụ biểu
Phía sau Minh Lâu nổi bật nhất là hai Tháp Hoa trụ biểu dựng trên 2 ngọn núi Bình Sơn và Thành Sơn được thiết kế cao nhất trong tất cả các khu lăng tẩm của triều Nguyễn ở Huế. Vị trí của tháp trụ biểu nằm giữa Bửu Thành và phần Tẩm điện, được xem như là trạm dừng chân cuối cùng của thực tại trong thế giới duy độ vật chất để bước qua cánh cổng sang cõi vĩnh hằng.
Cầu Chính Đại Quang Minh
Qua tòa Minh Lâu ta sẽ thấy có một cổng trụ biểu trên cổng đó có khắc 4 chữ “ Chính Đại Quang Minh” đây là cây cầu bắc qua hồ Tân Nguyệt (hồ có hình mặt trăng), để dẫn đến toà Bửu Thành.
Bửu Thành
Khi đi qua cầu Thông Minh Chính Trực ta phải bước qua 33 bậc thang để vào được bên trong tòa Bửu Thành. Bửu Thành là nơi đặt phần mộ của vua Minh Mạng, nơi cư ngụ phần xác của vua được bao bọc bởi hồ Tân Nguyệt, trong cấu trúc hình tròn tượng trưng cho mặt trời, toà nằm ở giữa hồ, và khuôn viên hồ và toà Bửu Thành nằm trên một quả đồi có tên Khải Trạch Sơn.
Xếp hạng
Lăng Minh Mạng là khu lăng tẩm nằm trong quần thể di tích cố đô Huế được xây dựng dưới triều Nguyễn và đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới.
Lăng Minh Mạng không chỉ ghi dấu ấn văn hoá lịch sử với nét đẹp truyền thống và đậm sắc màu Nho giáo xưa, xây dựng chuẩn mực theo lối kiến trúc cổ thời Nguyễn, đây còn là một điểm đến vô cùng hấp dẫn và quen thuộc với tất cả các du khách không thể bỏ lỡ trong hành trình tham quan khi đến mảnh đất Huế của mình. Những kiến trúc cổ kính uy nghiêm cùng với khung cảnh thiên nhiên đầy thơ mộng sẽ là góc tuyệt đẹp ưa thích để cho khách tham quan chụp ảnh kỷ niệm.
Chú thích
Tài liệu tham khảo
-
- Trần Mạnh Thường (chủ biên), Đình Chùa lăng tẩm nổi tiếng Việt Nam, Nxb Văn Hoá Thông tin (1999).
- Tạp chí kiến trúc số 9-2022.
- Văn bia “Ngự chế Thánh Đức thần công bi”, chonthieng.com
- Đại Nam nhất thống chí,quyển I, Nxb Thuận Hóa Huế -1992.
- Huỳnh Đình Kết, Cố đô Huế xưa và nay, Nxb Thuận Hóa (2005).
- Bất Tiếu Nguyễn Quốc Bảo, Gia tộc họ Nguyễn.
- Bản chiếu của vua Minh Mạng.