Thân thế
Minh Hành thiền sư 明行禪師 (1596-1659) là tổ thứ 2 Lâm Tế Đàng Ngoài, đời 35 dòng Lâm Tế, pháp hiệu là Tại Tại 在在, người phủ Kiến Xương, tỉnh Giang Tây. Sư theo thầy là thiền sư Chuyết Chuyết sang Việt Nam, đến kinh thành Thăng Long năm 1633, là một cánh tay trợ giúp thầy giáo hóa.
Hành trạng
Ngài họ Hà, người phủ Kiến Xương, tỉnh Giang Tây, nước Đại Minh (Trung Quốc). Vào năm Đức Long thứ 5 (1633), ngài theo sư Phổ Giác (tức Chuyết Công) đến hành hóa tại Quốc Đô (Thăng Long). Năm Phúc Thái thứ 2 (Giáp Thân) tức năm 1644, ngài được thiền sư Chuyết Công truyền y bát kế thế trụ trì chùa Ninh Phúc (Bút Tháp).
Theo Sắc Kiến Ninh Phúc Thiền Tự Bi Ký cho biết vào năm Phúc Thái thứ 5 (1647), thiền sư cho trùng hưng chùa Ninh Phúc. Đây là đợt trùng tu có quy mô lớn, được triều đình ủng hộ trong đó có công của Diệu Thiện, một vị đệ tử lớn của Minh Hành. Cũng theo văn bia ghi tên thiền sư có hiệu là Vân Thủy sa di.
Năm Khánh Đức 4 (1652), thiền sư cho in tác phẩm Tâm Châu Nhất Quán của Thích Viên Diễn (Trung Quốc), trong đó cho in hai bài viết của mình là Thánh hiền tương nhược tự và Thánh chúa hiền thần tụng.
Tác phẩm
Năm Thịnh Đức thứ 5 (1657), thiền sư in tác phẩm “Thiên Đồng Tụng Cổ”. Bản này được in lại năm Cảnh Hưng 24, do tì kheo tự Như Không, bản lưu tại chùa Đoan Nghiêm, xã An Lâm, huyện Đông Triều. Đây là một tác phẩm thiền tông Trung Hoa, có ảnh hưởng nhiều đến các chùa ở Việt Nam.
Qua tiểu truyện của thiền sư, chúng ta thấy thiền sư Minh Hành là một bậc cao tăng được triều đình vua Lê chúa Trịnh ủng hộ. Các công trình kiến trúc của chùa Bút Tháp lúc này đều do một tay thiền sư kiến tạo. Thiền sư đã hoằng hóa khắp nơi từ Kinh thành cho đến Kinh bắc, làm cho Phật pháp được mở mang thêm. Công nghiệp của thiền sư đối với Phật giáo là điều hiển nhiên. Thiền sư Minh Hành còn để lại mấy tác phẩm sau:
- Chuyết Công Ngữ Lục
- Thánh Hiền Tương Nhược Tự, viết năm Khánh Đức thứ 3 (1651)
- Thánh Chúa Hiền Thần Tụng, viết năm Khánh Đức thứ 3 (1651)
- Trùng San Tịnh Từ Kinh Tự, viết năm Quý Tị (1653)
- Sắc kiến Ninh Phúc thiền tự bi ký.
Bài kệ truyền thừa
Bài kệ truyền thừa của thiền sư Minh Hành đã được các tư liệu dưới đây ghi lại như sau: Theo Thích song tổ ấn tập của thiền sư Trừng Diệu Tịnh Hạnh, chùa Thiền Lâm, Phan Thiết có ghi bài kệ như sau:
“Bắc kỳ hữu Chuyết Công phái đệ nhị chi phái kệ vân:
Minh chân như bảo hải,
Kim tường phổ quang thông.
Chí đạo thành chính quả,
Giác ngộ chứng chân không.
Nhạn tháp tự Minh Hành Tại Tại hòa thượng vi nhất thế. Nhị truyền Chân Trú thiền sư. Tam truyền Như Tùy thiền sư. Tứ truyền Hà Nội tỉnh Liên Tôn tự Như Như Lân Giác thượng sĩ, truyền vi Chuyết Công pháp phái vi nhất thế. Nhị truyền Bảo Sơn Tính Thược hòa thượng tam truyền Hải Quýnh hiệu Từ Phong tổ sư. Tứ truyền Kim Sơn Tịch Truyền thiền sư. Ngũ truyền Tường Quang Chiếu Giác thiền sư. Lục truyền Phổ Viện thiền sư. Thất truyền vân vân.”
Nguyên văn chữ Hán:
北圻有拙公派第二枝派偈云:
明真如寶海
金祥普光通
至道成正果
覺悟証真空
鴈塔寺明行在在和尚為一世. 二傳真住禪師.
三傳如隨禪師.四傳河內省蓮尊寺如如麟角上士. 傳為拙公法派為一世. 二傳寶山性爚和尚. 三傳海炯號慈風祖師. 四傳金山寂傳禪師. 五傳祥光炤覺禪師. 六傳普院禪師. 七傳云云.
Dịch nghĩa:
Bắc kì có phái Chuyết Công, bài kệ phái chi 2 ghi rằng:
Minh chân như bảo hải,
Kim tường phổ quang thông.
Chí đạo thành chính quả,
Giác ngộ chứng chân không.
Hòa thượng Minh Hành Tại Tại, Chùa Nhạn Tháp là đời thứ nhất. Truyền đến đời thứ 2 là thiền sư Chân Trú, truyền đến đời thứ 3 là thiền sư Như Tùy. Truyền đến đời thứ 4 là thượng sĩ Như Trừng Lân Giác, chùa Liên Tôn, Hà Nội, truyền theo pháp phái Chuyết Công làm đời thứ nhất. Đời thứ 2 hòa thượng Bảo sơn Tính Dược, đời thứ 3 tổ sư Hải Quýnh, hiệu Từ Phong. Đời thứ 4 thiền sư Kim Sơn Tịch Truyền. Đời thứ 5 thiền sư Tường quang Chiếu Giác. Đời thứ 6 thiền sư Phổ Viện. Đời thứ 7…
Tham khảo
- Bài kệ truyền pháp của Thiền sư Minh Hành Tại Tại, Giáo hội Phật giáo Việt Nam
- Sách “Chiết công ngữ lục”, Minh Hành Tại Tại biên soạn
- Sách “Thiền uyển tập anh”, Lê Mạnh Phát, Viện nghiên cứu Phật học, Nhà xuất bản Văn học, năm 1990
- Sách “Thiền sư Việt Nam”, Thích Thanh Từ, DL 1999 – PL 2543