Bia Hưng Khánh Tự Kí Kị Bi(興慶寺奇忌碑)- Chùa Vua (Hưng Khánh Tự, Hai Bà Trưng, Hà Nội)

Bia Hưng Khánh Tự Kí Kị Bi(興慶寺奇忌碑)- Chùa Vua (Hưng Khánh Tự, Hai Bà Trưng, Hà Nội)

Thông tin cơ bản

  • Tên: Hưng Khánh Tự Kí Kị Bi – 興慶寺記忌碑
  • Vị trí: Khu vực nhà Tổ, Chùa Vua (Hưng Khánh Tự, Hai Bà Trưng, Hà Nội)
  • Nội dung:

Phiên âm
Tổng tựa tinh dã cương vực tân tân tạo Hưng Khánh tự bi kí
Hựu cung tiến miêm túc tản nhất song, kỳ biển nhất bộ.
Phù dịch chi ngôn viết: tại thiên thành tượng, tại địa thành hình, phương dĩ loại tụ, vật dĩ quần phân. Thử tinh dã cương vực chi sở do phân dã.
Tự hữu Ngu thị tuyền cơ ngọc hành dĩ tề thất chính, Hạ Hậu thị huyền khuê tạo thành nhi chính cửu châu. Hậu chi ngưỡng quan phủ sát giả thành. Vị thông đô cự ấp, các hữu biên thùy, tung nhạc danh sơn thượng ứng liệt tú. Tuy phương lý chi vực  hàm văn chi bảo mạc bất thuộc ư phận dã, thống tư phân tinh, kính chi dĩ kinh giới biệt chi dĩ phiên li. Do thị tai tường chi trưng, bỉ ngã chi [kiến?] phân, nhiên khởi phát như thử sa bà thế giới thị tắc bất nhiên. Hà dĩ cố? Dĩ lục hợp vi nhất gia, bát hoang vi nhất thát, vạn tượng sâm la. Nhất tâm sở ấn, nhi kim thị bỉ hoạnh sinh khu vực giả thí như hữu nhân cát tải hư không, dục kỳ ly dị thu quy tự kỷ khởi khả đắc da. Tuy nhiên, như thị vân nguyệt tổng đồng, khê sơn các biệt, vô cố hư không, hốt sinh sơn hà đại địa. Ư đại địa thượng khu, phân đại tiểu chư quốc tỉnh phủ huyện xã thôn thành tụ lạc. Ư chư tụ lạc khu vực kiến lập già lam tinh xá. Kim ư Thịnh An khu vực tân tạo Hưng Khánh già lam. Thùy khai thùy kế, thùy chủ thùy tân, Hưng Khánh đồng cư bất phương đế. Đương như hoặc bất nhiên tắc trảm hình phi cức, khẩn thổ tru mao hoàn dữ mộc nhân thảo sáng da.
Thử xứ lợi tạo Hưng Khánh già lam, nhưng trụ tỷ khâu Thanh Lịch dữ đàn chủ Sái Huy [Khiêm?]. Nhâm Ngọ niên tam nguyệt thập ngũ nhật. Nhất nguyệt sơ thất nhật chính kị. Thê Bùi Thị Ốc hiệu Diệu Thông, Đinh Dậu niên nguyệt nhật tạo [?][?] kỳ ư tam nguyệt nhị thập thất nhật chính kỵ.
[?] quyên tư tân tạo thượng điện ngũ gian, tiền đường thất gian nội tự điền ngũ cao tại Cung Đường xứ, tịnh Thanh tiền nhất thiên ngũ bách mân, dân điền nhất mẫu tứ cao tại Bạch [Mai?] phường Lễ Giai xứ, tịnh Thanh tiền ngũ bách quán, đồng dân ưng thuận thụ hợp ước bách tuế hậu đệ niên tác kị nhật bản thôn biện cụ chư nhất diện, xôi nhất bàn, kim ngân phù lưu cụ túc. Chí như [?] [?] lễ vật truy [nghi?] [?] tòng phối hưởng yếu tại phụng sự tam bảo, dĩ thử công đức hồi hướng nội hiển khảo Sài quý công tự Doãn Chấp thụy Phúc Hậu, tỷ Nguyễn quý thị hiệu Từ [?]. Hiển khảo Bùi quý công tự Đức Chính, tỷ Lương quý thị, hiệu Từ Minh chư chân linh.
Tứ ân tổng báo, tam hữu trai tư, pháp giới chúng sinh đồng viên chủng trí. Hà dĩ cố, địa danh Thắng Mẫu chi lý Tăng Tử hồi xa, dịch thùy … chi văn [?] công tốn mỹ cố. Tuy chàng phá [?] lâu dã tu khiêm thoái. Như vân băng do ư thủy chính hảo tri nguyên, đàn việt phát tâm thành chi chí dã. Hưng công hội chủ hà cảm vong chi, thị cố tổng tuế tinh dã cương vực tân tạo Hưng Khánh già lam bi ký.
Tường án Hưng Khánh tự tại Hà [Nội?] [Hoài?] Đức phủ, [Thọ?] [Xương?] huyện, Kim [?] tổng [?] An thôn cương vực.
[Đồng?] [Khánh?] tam niên, tuế thứ Mậu Tý thập nhất nguyệt nhị thập cửu nhật lập bi ký.
Thảng hà nhân vong tiền công đức…

Dịch nghĩa
Bia ghi chép tổng quan về phạm vi, ranh giới [1] tân tạo chùa Hưng Khánh.
Lại cúng tiến ô gấm một đôi, cờ biển một bộ.
Lời sách Chu Dịch viết rằng: “ tại thiên thành tượng, tại địa thành hình, phương dĩ loại tụ, vật dĩ quần phân [2]”. Điều này chính là sự phân chia bởi cương vực vậy. Từ khi có họ Ngu [3] có máy tuyền cơ ngọc hành, để định thất chính [4]. Họ Hạ Hậu [5] đặt ra phép huyền khuê [6] cáo thành mà định ra chín châu [7]. Đời sau ngẩng xem thiên văn, cúi xét địa lý, đều cho rằng khắp các đô ấp lớn, mỗi nơi đều có ranh giới cương vực. Núi Tung Sơn danh tiếng, trên trời ứng các vì sao, tuy là cương vực một cõi, thắng cảnh hàm chứa vẻ đẹp không gì là không thuộc vào chỗ sao chiếu ứng, thâu tóm ở tinh phận mà xác định ra ranh giới, phân biệt ra bởi bờ ngăn cách [8]. Cũng bởi chỗ này mà phô bày ra tai ương hay tốt lành. Sự thấy biết của ta và người rối rắm khác nhau, tuy khởi phát như ở thế giới Sa bà này thì chẳng như vậy. Cớ vì sao như vậy? Vì lục hợp [9] là một nhà, bát hoang [10] là một phòng, vạn tượng sum la, nhất tâm ấn chứng, mà nay thấy kẻ kia từ nơi khác sinh đến, cũng ví như có người cắt vào hư không, mà muốn thoát ly thu trở về nơi mình, như thế há có được chăng!

Tuy nhiên, như là mây bay trăng lặn, cùng núi non khe suối có cách biệt, chẳng bởi hư không mà bỗng sinh núi sông đất lớn. Trên đất lớn lại phân chia ra các khu vực lớn nhỏ, các nước, các tỉnh, phủ, huyện xã thôn, thành quách, tụ lạc [11] , ở các khu vực dân cư lại xây dựng các chùa các tinh xá.

Nay ở khu vực Thịnh An mới xây một ngôi chùa là Hưng Khánh. Ai khai sáng, ai tiếp nối, ai là chủ, ai là khách. Chùa Hưng Khánh cùng tồn tại, chẳng phương hại đến thường tình đang có, hoặc như chẳng được thế ắt phải vượt khó khăn, mở đất phạt cỏ, trồng cây, đòi hỏi người sáng lập ấy vậy! Đất này thích hợp xây chùa Hưng Khánh, bởi trụ trì là Tỷ kheo Thanh Lịch cùng với đàn chủ là Sài Huy [?] xây dựng. Ngày 15 tháng 3 năm Nhâm Ngọ [12]. Giỗ ngày 7 tháng giêng. Vợ Bùi Thị Ốc, hiệu Diệu Thông, năm Đinh Dậu… giỗ ngày 27 tháng 3.

Đóng góp của cải để xây tòa thượng điện năm gian, tòa tiền đường bảy gian, ruộng trong chùa 5 sào tại xứ Cung Đường, cùng với Thanh tiền [13] một nghìn năm trăm mân [14], ruộng dân một mẫu bốn sào tại phường Bạch [Mai?], xứ Lễ Giai, cùng với tiền Thanh năm trăm quan. Toàn dân cùng ưng thuận đến trăm năm sau, hàng năm vào ngày giỗ, thôn ta biện cỗ lợn một mặt, xôi một mâm, tiền vàng, trầu rượu đầy đủ đến như lễ vật [? ][?] cùng theo đó phối hưởng, quan trọng ở việc phụng sự tam bảo.

Kính đem công đức này hồi hướng đến chân linh các vị.

Hiển khảo có họ Sài, tên tự là Doãn Chấp, tên thụy là Phúc Hậu, cùng vợ của ngài, có họ Nguyễn, hiệu là Từ [?].
Hiển khảo có họ Bùi, tên tự là Đức Chính, cụ bà vợ của cụ có họ Lương, hiệu là Từ Minh.

Tổng báo tứ ân [15], tam hữu [16] tư lương thanh tịnh, mọi chúng sinh trong pháp giới đều được trí tuệ viên mãn tròn đầy. Cớ vì sao tên gọi làng Thắng Mẫu mà ngài Tăng Tử không vào, ngài Mặc tử quay xe [17]… tuy phá lầu gác vậy. Nên khiêm thoái như nói: Băng sinh ra từ nước chính là khéo biết về nguồn gốc, tín thí phát tâm rất mực chí thành vậy. Hội chủ hưng công sao dám quên công ấy, bởi vậy nên ghi vào bia đá nói tổng quát ranh giới phạm vi tân tạo chùa Hưng Khánh.
Xét rõ: chùa Hưng Khánh ở trong cương vực thôn [?] An, tổng [?] huyện [Thọ?] phủ [?] [Đức?] tỉnh Hà [Nội?]
Ngày 29 tháng 11 năm Mậu Tý- năm thứ ba niên hiệu Đồng Khánh [18] lập bia.

Chú thích

[1] Nguyên Hán văn là tinh dã cương vực. Tinh dã là thuật ngữ của thiên văn học, nói việc các sao hoặc chòm sao trên trời chiếu ứng và chủ một vùng đất nào đó ở dưới đất. Ví dụ như nói nước Nam ta thuộc vùng sao Dực, và sao Chẩn. Cương vực: là chỉ bờ cõi biên giới lãnh thổ của một nước.

[2] Trên trời thành ra khí tượng, dưới đất tạo thành hình hài, thuận loài hợp tụ, khác tính phân chia.

[3] Họ Ngu, tức Ngu Thuấn. Thời đế Thuấn có máy “tuyền cơ ngọc hành” dụng cụ để làm lịch, định thời tiết.

[4] Thất chính: gồm năm sao Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ và Mặt trời, mặt trăng.

[5] Tức chỉ vua Đại Vũ. Vua Vũ định quốc hiệu là Hạ. Triều đình nhà Hạ xưng hô có thêm chữ hậu đi kèm, cũng để chỉ họ tộc.

[6] Sách Thượng thư thiên Vũ Cống chép: vua Vũ ban ngọc huyền khuê cho các công thần có đại công cáo thành. Nhưng theo Khổng truyện thì chính vua Vũ có đại công phổ khắp bốn bể nên được đế Nghiêu ban cho ngọc có sắc đen gọi là huyền khuê. Sau huyền khuê vừa là ngọc ban cho người có đại công, cũng phiếm chỉ đại nghiệp.

[7] Chín châu: Sau khi vưa Đại Vũ trị thủy thành công thì định ra chín châu gồm: Dực châu, Thanh châu, Từ châu, Dương châu, Kinh châu, Dự châu, Lương châu, Ung châu, Duyện châu.

[8] Nguyên văn là Phiên ly, tức là bờ rào bờ dậu.

[9] Lục hợp: tức bốn phương Đông Tây Nam Bắc và hai phương trên dưới.

[10] Bát hoang: cũng như tám hướng, phiếm chỉ cả thiên hạ.

[10] Tụ lạc: nơi tụ tập dân cư.

[12] Dòng chữ này nội dung chỉ vẻn vẹn có vậy.

[13] Tức tiền nhà Thanh bên Trung Quốc.

[14] Mân: đơn vị tiền thời cổ, tiền đồng xu xâu chuỗi lại thành tiền, thành mân.

[15 Tứ ân: Ơn cha mẹ, ơn thầy tổ, ơn trời đất, ơn tam bảo.

[16] Tam hữu: chỉ chúng hữu thức, hữu tình, hữu duyên.

[17] Sách sử ký – Lỗ Trọng Liên liệt truyện: trang sức cho đẹp để vào triều thì không  lợi ích gì cho việc nghĩa, trau chuốt danh hiệu thì chẳng có đả động gì đến thực hành. Cho nên huyện có tên gọi là Thắng Mẫu thì Tăng Tử không vào, ấp có tên là Triều Ca thì Mặc Tử quay xe. Vì không thuận theo cổ vậy.

[18] Tức năm 1888.

 

Chấm điểm
Chia sẻ

Hình ảnh văn bia

Nội dung chính

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *


Banner App ChỐn ThiÊng 3 (60x90)