Tên gọi và vị trí địa lý
Chùa Bà Nành (Tiên Phúc tự), tọa lạc ở số nhà 27 phố Văn Miếu (Hà Nội). Bên cạnh đó, ngôi chùa còn có một cổng khác nằm tại số 154, phố Nguyễn Khuyến.
Lịch sử và nhân vật
Hiện nay, chưa tìm thấy tư liệu ghi chép chính xác về niên đại khởi dựng của chùa. Có hai truyền thuyết về Tiên Phúc tự. Truyền thuyết thứ nhất kể rằng ngôi chùa này được dựng vào thời Lê, thế kỷ XV để thờ một bà cụ không rõ tên tuổi, thường bán chè đậu nành cho các học trò của trường Quốc Tử Giám ở ngay bên cạnh. Tương truyền rằng, khi về già, bà đã bỏ tất cả tiền nong tích góp xây ngay trên đất nhà mình một ngôi chùa và xuất gia tu hành. Sau khi bà mất, dân làng đắp tượng bà và đặt trên tấm đá mà bà vẫn dùng làm bàn bán hàng. Bởi vậy, chùa mới có tên gọi là chùa Bà Nành. Có tư liệu cho biết có lần vua Lê Thánh Tông (1460 – 1497) đến thăm Quốc Tử Giám đã ghé vào vãn cảnh chùa.
Truyền thuyết thứ hai gắn liền với một câu chuyện đầy lãng mạn, kể rằng từ đầu thế kỷ XIII, vua nhà Lý đã cho dựng ngôi chùa này. Đến thời Trần thì chùa đổi tên là Tiên Phúc tự vì theo lời đồn đại trong dân gian, thỉnh thoảng người ta vẫn thấy có nàng tiên xuất hiện trước sân chùa. Cuối thế kỷ XV, có lần vua Lê Thánh Tông đến ngắm cảnh chùa thì thấy một người con gái đẹp ở trên gác chuông ngâm nga mấy vần thơ:
Ở đây mến cảnh, mến thầy
Tuy vui đạo Phật, chưa khuây lòng người.
Nhà vua bèn làm cùng cô gái xướng họa, quyến luyến không muốn rời. Mãi đến lúc bỗng nàng biến mất tại đình Quảng Văn mới biết là tiên, sau đó vua cho dựng lầu Vọng Tiên ở ngoài cửa Đại Hưng (gần vườn hoa Cửa Nam bây giờ) để kỷ niệm. Ba thế kỷ trôi qua, sau khi thực dân Pháp cho phá tường thành Hà Nội thì di tích lầu Vọng Tiên bị chuyển về nhà số 120B phố Hàng Bông.
Truyền thuyết thứ hai giống với bản sự tích chùa Bà Ngô (Ngọc Hồ tự), một ngôi chùa có xuất xứ muộn và tọa lạc ở ngay cạnh chùa Bà Nành. Truyền thuyết thứ nhất nhắc tới nhiều địa danh quanh chùa liên quan mà đến nay vẫn còn nguyên. Bởi vậy, có lẽ truyền thuyết thứ nhất đáng tin cậy hơn cả.
Kiến trúc cảnh quan
Năm Đinh Hợi (1887) dưới đời vua Đồng Khánh, chùa Bà Nành được tu sửa lớn sau khi quân Pháp chiếm thành Hà Nội. Từ đó kiến trúc cơ bản được duy trì cho đến hiện nay, mặc dù khuôn viên đã bị thu hẹp ít nhiều do thực dân Pháp mở mang phố xá và các hộ gia đình xung quanh lấn chiếm.
Cuối thế kỷ XX, cổng bên của chùa ở số nhà 27 phố Văn Miếu bị bịt kín và một số hộ kinh doanh xung quanh đã lấn chiếm khuôn viên làm cho ngôi chùa chỉ còn lại cổng chính ở số nhà 152 phố Nguyễn Khuyến. Mãi đến năm 2007, khu vực đó mới được giải toả và cổng chùa được xây lại. Một phần bức tường ngoài được xây bằng gạch vồ, cùng dáng vẻ như bức tường đối diện của khu Văn Miếu.
Hai bên Tam Quan có tượng hai ông Hộ pháp cầm binh khí đứng gác. Đi từ ngoài vào trong, du khách qua một sân nhỏ là đến gian Tiền Đường ba gian. Chùa Chính được xây kiểu truyền thống đơn giản với kết cấu hình chuôi vồ, chia làm hai nơi tiếp khách và điện thờ Phật. Phía sau Hậu Cung có nhà Ni và mở cổng bên ra phố Văn Miếu. Tất cả đều mang phong cách nghệ thuật kiến trúc thời Nguyễn.
Hiện vật
Hiện nay, trong chùa vẫn lưu giữ một số cổ vật quý, gồm 3 tấm bia đá và 1 quả chuông niên đại thời Nguyễn. Ngoài tượng Phật, chùa cũng thờ tượng Bà Nành ở ngay bên cạnh Phật điện. Pho tượng Bà Nành được tạc ở tư thế ngồi trên bệ gỗ khuôn mặt phúc hậu, gần gũi với đời thường, mang đậm phong cách nghệ thuật thế kỷ XVIII. Bên trong chùa hiện còn cả “một phiến đá màu xanh đen trên mặt có chạm chìm các vân mây, phiến đá này được đặt trước tượng Bà Nành. Tương truyền đây là phiến đá xưa kia Bà Nành vẫn ngồi bán nước, bán chè đậu nành.”[1]
Xếp hạng
Tiên Phúc tự đã được Bộ Văn hóa – Thông tin xếp hạng Di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia vào ngày 12/12/1986.
Chú thích
[1] Lưu Minh Trị (Chủ biên), Hà Nội danh thắng và di tích, tập 2, Nxb Hà Nội, 2011, tr. 347.
Tham khảo
- “Chùa Bà Nành”, Di tích lịch sử văn hoá Hà Nội, truy cập ngày 8/11/2024.
- Lưu Minh Trị (Chủ biên), 2011, Hà Nội danh thắng và di tích, tập 2, Nxb Hà Nội.