Tên gọi và vị trí địa lý
Chùa Đại Từ, tên chữ là “Đại Bi tự” tọa lạc tại số 122 phố Đại Từ, phường Đại Kim, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội. Đại Từ là tên cổ của một thôn nằm kề bên đầm Đại (đầm Linh Đường) nên còn có tên nôm là làng Đầm.
Đại Từ nằm ở vùng Tả ngạn sông Tô Lịch – dòng sông đã đi vào lịch sử của thủ đô và lịch sử đất nước hàng nghìn năm qua trên bến, dưới thuyền, ngược xuôi tấp nập, cảnh tượng đó đã đi vào ca dao:
Sông Tô nước chảy trong ngần
Con thuyền buồm trắng chạy gần, chạy xa
Hoặc:
Nước sông Tô vừa trong, vừa mát
Em ghé thuyền đỗ sát thuyền anh.
Nói về mảnh đất Đại Từ quả chuông “Đại Bi tự chung” niên hiệu cảnh Thịnh thứ 3 (1795) có bài minh viết như sau:
Trời đất tốt đẹp, nhật nguyệt sáng trong
Đạo hữu tập hợp lại, quả phúc được vuông tròn
Chuông treo nơi bảo các, vang vọng nghĩa thanh
Đêm khuya gió đưa tiếng, cảnh tỉnh người ngủ mê [1]
Lịch sử
Ngoài quả chuông thời Hậu Lê kể trên, hiện chùa còn lưu giữ được tấm bia Ký kỵ bi ký lập ngày 12 tháng Bảy năm Minh Mệnh 20 (1839) có nội dung: “… Nay chùa cổ linh thiêng tên gọi Đại Bi, trải qua nhiều năm mưa gió tường cột sắp đổ, dân bản thôn muốn hợp sức lại để tu sửa. Trong thôn có ông Phạm Tông Môn tự Phúc Bảo vợ là Tô Thị Sự hiệu Diệu Hậu nguyên, xuất của nhà số tiền là 60 quan dùng để trợ giúp, cùng 2 sào 5 thước ruộng tốt lưu làm ruộng thờ cúng…” [2] Qua nội dung của bài minh chuông và tấm bia đá trên đã cho chúng ta biết ngôi chùa được khởi dựng vào thời Lê và được trùng tu vào thời Nguyễn.
Kiến trúc cảnh quan
Ngôi chùa tọa lạc trên khu đất rộng, bên cạnh ngôi đình làng. Các công trình kiến trúc của chùa được quy hoạch trong một không gian thoáng đãng. Tổng thể mặt bằng kiến trúc chùa gồm: chùa chính, Nhà Tổ, Nhà Mẫu. Chùa chính có kiến trúc hình chữ Đinh gồm Tiền Đường và Thượng Điện.
Tiền Đường là một nếp nhà gồm 3 gian 2 chái, xây kiểu tường hồi bít đốc tay ngai mái chồng diêm hai tầng, Bờ nóc đắp hình cuốn thư đề ba chữ Hán “Đại Bi tự (Chùa Đại Bi), bờ dải đắp kiểu bờ đinh, phần cổ diêm chia thành các ô hình chữ nhật, hai bên hiên phía trước đỉnh trụ đắp hình chái giành, phần ô lồng đèn đắp nổi hình tứ linh, tứ quý, thân trụ bổ khung ghi đôi câu đối, phía trước là hệ thống cửa bức bàn.
Bộ khung nhà Tiền Đường được liên kết với nhau bằng 4 bộ vì đỡ mái làm theo dạng thức kết cấu kiểu “giá chiêng.” Tại Tiền Đường, bên phải là ban thờ tượng Trừng Ác và tượng Đức Thánh Hiền; bên trái là ban thờ tượng Khuyến Thiện và tượng Đức Ông; giáp hồi bên phải là ban thờ tượng Địa Tạng.
Thượng Điện là nếp nhà hai gian nối với gian giữa Tiền Đường tạo thành chữ Đinh, mái lợp ngói ta, bộ khung đỡ mái gồm ba bộ vì kết cấu theo kiểu vì “giá chiêng’’. Hệ thống tượng trên Phật điện gồm:
- Hàng trên cùng là bộ tượng Tam Thế Phật, đại diện cho 3000 vị phật ở quá khứ, hiện tại và vị lai. Tượng ngồi trong tư thế kiết già trên đài sen cao chừng 1m, tóc xoắn ốc, nét mặt từ bi.
- Lớp thứ hai là tượng A Di Đà. Hai bên là Quan Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát.
- Lớp thứ ba là tượng Phật nhập Niết Bàn, hai bên là tượng Văn Thù Bồ Tát và Phổ Hiền Bồ Tát.
- Lớp thứ tư là tượng Quan Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn, bên phải là tượng Di Lặc.
- Lớp thứ năm là tượng Thích Ca sơ sinh và Toà cửu long, hai bên là tượng Nam Tào và tượng Bắc Đẩu.
Dọc hai tường hồi của Thượng Điện là tượng Thập Điện Diêm Vương. Giáp tường hậu Thượng Điện bên phải là ban thờ tượng Quan Âm Thị Kính, bên dưới là ban thờ bà Chúa Đá, bên trái là ban thờ Quan Âm Nam Hải.
Hiện vật
Hiện nay, chùa Đại Từ còn bảo lưu được nhiều di vật có giá trị tiêu biểu như: các tấm bia có niên hiệu Thiệu Trị 1 (1841), Tự Đức 2 (1868), Minh Mệnh 20 (1839) và quả chuông “Đại bi tự chung” niên hiệu Cảnh Thịnh 3 (1795).
Bên cạnh đó ngôi chùa còn bảo lưu được hệ thống các pho tượng tròn, mỗi pho tượng đều được được tạo tác một cách tỉ mỉ, công phu, trau chuốt, có giá trị thẩm mỹ cao.
Nhiều di vật khác như: cửa võng, hoành phi, câu đối, hương án… Mỗi di vật đều có những giá trị sử liệu nhất định về văn hóa, nghệ thuật … tạo nên sự sự linh thiêng cho khung cảnh của di tích.
Chú thích
[1] TS Nguyễn Doãn Tuân (Chủ biên), Di tích lịch sử văn hóa quận Hoàng Mai, Nxb Văn hóa Thông tin, 2010, tr. 349.
[2] TS Nguyễn Doãn Tuân (Chủ biên), Di tích lịch sử văn hóa quận Hoàng Mai, Sđd, tr. 349.
Tài liệu tham khảo
TS Nguyễn Doãn Tuân (Chủ biên), 2010, Di tích lịch sử văn hóa quận Hoàng Mai, Nxb Văn hóa Thông tin.