Lược sử
Chùa Dâu, còn có tên là Diên Ứng (延應寺), Pháp Vân (法雲寺), hay Cổ Châu, là một ngôi chùa nằm ở xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, cách Hà Nội khoảng 30 km. Đây là trung tâm Phật giáo cổ xưa nhất của Việt Nam. Đây là ngôi chùa được coi là có lịch sử hình thành sớm nhất Việt Nam mặc dù các dấu tích vật chất không còn, nó đã được xây dựng lại. Chùa là một danh lam bậc nhất của xứ Kinh Bắc xưa nay. Đây cũng là một di tích quốc gia đặc biệt của Việt Nam được xếp hạng đợt 4.
Chùa được xây dựng vào buổi đầu Công Nguyên. Các nhà sư Ấn Độ đầu tiên đã từng đến đây. Vào cuối thế kỷ 6, nhà sư Tì-ni-đa-lưu-chi từ Trung Quốc đến chùa này, lập nên một phái Thiền ở Việt Nam. Chùa được khởi công xây dựng năm 187 và hoàn thành năm 226, là ngôi chùa lâu đời nhất và gắn liền với lịch sử văn hóa Phật giáo Việt Nam, được Nhà nước xếp hạng di tích lịch sử ngày 28 tháng 4 năm 1962.
Chùa Dâu gắn liền với sự tích Phật Mẫu Man Nương thờ tại chùa Tổ ở làng Mèn, Mãn Xá cách chùa Dâu 1 km.
Chùa được xây dựng lại vào năm 1313 và trùng tu nhiều lần qua các thế kỷ tiếp theo. Vua Trần Anh Tông đã sai trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi về kiến thiết lại chùa Dâu thành chùa trăm gian, tháp chín tầng, cầu chín nhịp. Hiện nay, ở tòa thượng điện, chỉ còn sót lại vài mảng chạm khắc thời nhà Trần và thời nhà Lê.
Truyền thuyết về Chùa Dâu
Xưa kia có gia đình ông bà Tu Định, ở Làng mèn (Mã Xá) giàu lòng nhân đức, mến mộ phật giáo. Họ đã gửi người con gái duy nhất tên Man Nương đến chùa Linh Quang (Tiên Du, Bắc Ninh) tu đạo và giúp đỡ nhà chùa quét dọn, lấy củi, nấu nướng…Tại chùa có thiền sư Khâu Đà La là một vị cao tăng tinh thông pháp thuật, ai cũng kính nể, tôn thờ.
Một ngày sau khi đã dọn dẹp xong mọi việc trong chùa, Man Nương mệt quá đã ngủ thiếp đi bên bậu cửa. Lúc nhà sư Khâu- Đà- La tụng kinh xong, quay trở về phòng nghỉ. Nhà sư không muốn đánh thức nàng nên đã bước qua. Không ngờ “Nhân thiên hợp khí” nàng đã hoài thai và sinh con vào ngày mồng tám tháng tư âm lịch. Bé gái sinh ra có hương thơm ngào ngạt, mây ngũ sắc và ánh hào quang chiếu sáng khắp nơi. Nhà sư nhận lấy đứa bé, bế đến trước một gốc cây Dung thụ trong chùa, gõ gậy vào thân cây và niệm chú. Bỗng nhiên, cây Dung thụ liền tách ra làm đôi, nhà sư đặt đứa bé vào trong, rồi cây tự nhiên khép lại như cũ.
Trong một đêm mưa to gió lớn, cây Dung thụ đổ xuống và trôi theo sông Dâu. Trong đêm đó, thái thú Sĩ Nhiếp đã mơ thấy thần nhân đến báo mộng xin được tạc tượng. Sĩ Nhiếp đã sai quân lính vớt cây Dung thụ lên nhưng bao nhiêu người cũng không kéo nổi. Chỉ khi bà Man Nương đưa dải yếm lôi lại thì mới được. Thái thú cho người đi tìm thợ tài, khéo về tạc được bốn pho tượng. Tương truyền khi tạc bốn ngôi tượng đã thấy mây, mưa, sấm, chớp nổi lên. Vì vậy mà các tượng mới có tên là Pháp Vân – Pháp Vũ – Pháp Lôi – Pháp Điện. Bốn bức tượng được đặt thờ tại bốn ngôi chùa khác nhau ở trên cùng một khu vực là Chùa Dâu, Chùa Đậu, Chùa Dàn, Chùa Tường.
Kiến trúc
Cũng như nhiều chùa chiền trên đất Việt Nam, chùa Dâu được xây dựng theo kiểu “nội công ngoại quốc”. Bốn dãy nhà liên thông hình chữ nhật bao quanh ba ngôi nhà chính: tiền đường, thiêu hương và thượng điện. Tiền đường của chùa Dâu đặt tượng Hộ pháp, tám vị Kim Cương; Gian thiêu hương đặt tượng Cửu Long, hai bên có tượng các vị Diêm Vương, Tam châu Thái tử, Mạc Đĩnh Chi. Thượng điện để tượng Bà Dâu (Pháp Vân), Bà Đậu (Pháp Vũ), và các hầu cận. Các pho tượng Bồ tát, Tam thế, Đức ông, Thánh tăng được đặt ở phần hậu điện phía sau chùa chính.
Một trong những ấn tượng khó có thể quên được ở nơi đây là những pho tượng thờ. Ở gian giữa chùa có tượng Bà Dâu, hay nữ thần Pháp Vân, uy nghi, trầm mặc, màu đồng hun, cao gần 2m được bày ở gian giữa. Tượng có gương mặt đẹp với nốt ruồi to đậm giữa trán gợi liên tưởng tới những nàng vũ nữ Ấn Độ, tới quê hương Tây Trúc. Ở hai bên là tượng Kim Đồng và Ngọc Nữ. Phía trước là một hộp gỗ trong đặt Thạch Quang Phật là một khối đá, tương truyền là em út của Tứ Pháp.
Do chùa Đậu (Bắc Ninh) bị phá huỷ thời kháng chiến chống Pháp, nên tượng Bà Đậu (Pháp Vũ) cũng được đưa về thờ ở chùa Dâu. Tượng Pháp Vũ với những nét thuần Việt, đức độ, cao cả. Những tượng này đều có niên đại thế kỷ 18.
Bên trái của thượng điện có pho tượng thiền sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi, tượng được đặt trên một bệ gỗ hình sư tử đội tòa sen, có thể có niên đại thế kỷ 14.
Giữa sân chùa trải rộng là cây tháp Hòa Phong. Tháp xây bằng loại gạch cỡ lớn ngày xưa, được nung thủ công tới độ có màu sẫm già của vại sành. Thời gian đã lấy đi sáu tầng trên của tháp, nay chỉ còn ba tầng dưới, cao khoảng 17m nhưng vẫn uy nghi, vững chãi thế đứng ngàn năm. Mặt trước tầng 2 có gắn bảng đá khắc chữ “Hòa Phong tháp”. Chân tháp vuông, mỗi cạnh gần 7m. Tầng dưới có 4 cửa vòm. Trong tháp, treo một quả chuông đồng đúc năm 1793 và một chiếc khánh đúc năm 1817. Có 4 tượng Thiên Vương cao 1,6m ở bốn góc. Trước tháp, bên phải có tấm bia vuông dựng năm 1738, bên trái có tượng một con cừu đá dài 1,33m, cao 0,8m. Tượng này là dấu vết duy nhất còn sót lại từ thời nhà Hán.
Lễ hội
Dù ai đi đâu về đâu
Hễ trông thấy tháp chùa Dâu thì về.
Dù ai buôn bán trăm nghề
Nhớ ngày mồng tám thì về hội Dâu.”
Lễ hội chùa Dâu diễn ra vào ngày 8 tháng Tư âm lịch hàng năm và là lễ hội gắn liền với Phật giáo. Ngoài ra trong lễ hội còn có nhiều nghi thức và các trò chơi dân gian.
Tới hội chùa Dâu, du khách và người dân địa phương sẽ được tham gia các nghi thức cổ truyền như cướp nước, múa trống, múa gậy và nhiều trò diễn xướng dân gian như chầu văn, hát chèo, hát trống quân,… Nổi bật là hoạt động rước tượng Tứ Pháp từ 3 chùa về chùa Dâu “công đồng” hội tụ các yếu tố Mây + Sấm + Chớp = Mưa. đi Sau đó 4 kiệu sẽ đến chùa Tổ thăm mẹ Man Nương
Đây được coi là lễ hội Phật giáo lớn của vùng Bắc Bộ với ý nghĩa cầu cho mưa thuận gió hòa, sản xuất nông nghiệp mùa màng được bội thu.
Tham khảo
- https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%C3%B9a_D%C3%A2u
- https://nguoikesu.com/dia-danh/chua-dau
- https://oancotam.com/chua-dau/