Tên gọi
Chùa Đồng Quang có tên chữ là Đồng Quang Tự.
Lược sử
Dưới thời Lê Trung Hưng, khu vực cánh đồng phía nam Xã Đàn này vốn là trường thi Bác cử, tức thi võ để chọn tướng sĩ. Đến Tết năm Kỷ Dậu 1789, nơi đây trở thành chiến trường đẫm máu. Nghĩa quân Tây Sơn do Đô đốc Long thống lãnh đã tiêu diệt đại bộ phận quân Thanh đồn trú do Thái thú Sầm Nghi Đống chỉ huy. Đồn Khương Thượng bị phá huỷ, còn tướng giặc thắt cổ tự tử. Thời Nguyễn, theo tấm bia mang niên hiệu Tự Đức thứ 8 (1856) thì vào năm Thiệu Trị thứ 7 (1847), Tổng đốc Hà Nội là Đặng Văn Hoà xin cấp 15 mẫu đất và nhân công, tiền của từ 2 trại Thịnh Quang, Nam Đồng để làm tự đàn và nghĩa địa chôn hài cốt quân Thanh.
Năm 1851, Kinh lược sứ Nguyễn Đăng Giai khi mở đường, mở chợ mới ở vùng này lại thấy nhiều xương khô xuất lộ nên kêu gọi các nhà hảo tâm dựng ở cạnh tự đàn thêm mấy gian nhà nữa để làm chùa cúng cô hồn, rồi ghép hai tên trại Nam Đồng và Thịnh Quang thành tên chùa Đồng Quang.
Năm Bính Tuất niên hiệu Đồng Khánh (1886), Tri huyện Thọ Xương lại cho cải tạo ngôi chùa và mở toà tả vu. Chùa đến năm 1915 mới hoàn chỉnh, khi đó sư trụ trì làm thêm nhà thờ Tổ và xây cổng. Sau này trong quá trình đô thị hoá Hà Nội dưới thời Pháp thuộc, không dấu tích cũ gì còn lại trừ chùa Đồng Quang và chùa Bộc.
Cho đến năm 1975 nơi đây nhà cửa thưa thớt, từ chùa có thể nhìn rõ miếu Trung Liệt nằm đối diện ở bên kia phố trên quả gò Đống Đa. Chùa và miếu vốn là hai công trình kiến trúc tâm linh được xây vào giữa thế kỷ XIX, nằm trong quần thể di tích trên chiến trường cũ. Sau khi mở con đường lớn từ Hà Nội đi Hà Đông rồi lấp hồ nước giữa hai công trình này thì cụm di tích mới bị chia cắt.
Kiến trúc
Chùa có kiến trúc hình chữ Đinh (亭), bao gồm tiền đường và thượng điện. Trong khuôn viên chùa Đồng Quang còn có tự đàn, sau mở rộng xây thêm dần các nhà tả vu, hữu vu, nhà tổ và vườn tháp mộ bên cạnh thượng điện. Cả ba sân trước, giữa và sau đều lát gạch đỏ trên những diện tích khá nhỏ.
Cổng chính cũ nay đã mất, mặt trước chùa không còn gì ngoài các cột nghi môn bị tường bít xây áp chắn. Sân trước có nhiều cây nhỏ và tượng Quán thế âm Bồ tát. Nhà tiền đường rộng 5 gian, bờ nóc đắp hổ phù đội toà sen, có rồng chầu hai bên. Kiến trúc vì mái kiểu chồng rường, giá chiêng, hạ kẻ, phần trên của hai vì hồi theo kiểu kẻ chuyển. Nền chùa lát gạch vuông và được đắp khá cao so với mặt sân.
Thượng điện ba gian chạy dọc, vì kèo chồng rường, giá chiêng, xây bệ cao dần để bài trí tượng Phật. Chùa có 37 tượng Phật, sau này có thêm 14 tượng Mẫu và 4 tượng ở gian thờ vua Quang Trung. Ngoài ra có 7 cửa võng sơn son thếp vàng, 5 khám thờ, 14 bia đá và 2 quả chuông. Tất cả đều mới được trùng tu, kể cả vườn tháp mộ bên mé phải.
Di vật – Đặc trưng
Chùa Đồng Quang trước kia có 37 pho tượng Phật, sau này mới thêm 14 tượng ở nhà thờ Mẫu và 4 tượng ở gian thờ vua Quang Trung. Ngoài ra còn có 7 cửa võng sơn son thiếp vàng, 5 khám thờ, 14 bia đá và 2 quả chuông đồng. Gần đây lại đặt thêm bộ tượng Quan âm nghìn mắt nghìn tay bằng gỗ khá lớn tại nếp nhà trước của tự đàn và những pho tượng đá tại khoảng giữa các gian ở phía bắc vườn tháp mộ rồi bổ sung phần trang trí cho mọi ban thờ.
Không kể những pho tượng và đồ tế khí mới đưa về, phần lớn các cổ vật trong chùa đều có niên đại của thời Nguyễn. Nghệ thuật trang trí thể hiện ở các cốn rường, kẻ, câu đầu theo các đề tài hổ phù, rồng lá, mây lá, vân mây, riềm mái có hoa giấy, mai lão, trúc lão. Hai cốn nách vì giữa chạm nổi rồng ẩn trong mây, thuộc phong cách nghệ thuật điêu khắc gỗ của thế kỷ XX.
Sự kiện – Thành tựu
Ngày 27/12/1990, chùa được Bộ Văn hoá và Thông tin xếp hạng Di tích lịch sử kiến trúc nghệ thuật quốc gia.
Tham khảo
- Chùa Đồng Quang, https://360.hncity.org/spip.php?article134
- Chùa Đồng Quang, https://vanhien.vn/news/Chua-Dong-Quang-34640
- Chùa Đồng Quang – Công trình kiến trúc tâm linh thủ đô, https://laodongthudo.vn/chua-dong-quang-cong-trinh-kien-truc-tam-linh-o-thu-do-99738.html
- Chùa Đồng Quang, http://tinhtam.vn/threads/chua-dong-quang.183/
- Sách “Đình và đền Hà Nội”, Nguyễn Thế Long, NXB Văn hoá – Thông tin (2005 – Tái bản lần thứ nhất có sửa chữa).