Tên gọi và vị trí địa lý
Chùa Hà có tên chữ là Thánh Đức tự (聖德寺), cùng với đình Bối Hà, lập thành cụm di tích đình – chùa Hà nằm trên một mảnh đất, trước kia thuộc xóm Hà (nằm đối diện qua đường Cầu Giấy), thôn Trung, xã Dịch Vọng, huyện Từ Liêm, nay là số nhà 86 phố Chùa Hà, phường Dịch Vọng, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội. Chùa Hà cùng với chùa Duyên Ninh là 2 ngôi chùa cầu duyên ở miền Bắc.
Lịch sử
Về lịch sử chùa, có truyền thuyết cho rằng: vào thời Lý vùng Dịch Vọng đã có nhiều danh thắng nổi tiếng. Vua Lý Thánh Tông (trị vì 1054 – 1072) lúc 42 tuổi vẫn chưa có con nên đã cầu tự ở một ngôi chùa mà sinh ra Thái tử Lý Càn Đức ( Lý Nhân Tông ), do đó ngôi chùa này gọi là chùa Thánh Chúa để kỷ niệm sự kiện này. Trên đường đi vua còn ghé qua một ngôi chùa khác và ban tiền bạc cho chùa để trùng tu lại, vì vậy chùa này còn có tên là Thánh Đức tự. Vua Lý Thánh Tông đột ngột mất năm 50 tuổi, thái tử Càn Đức lên ngôi lúc 7 tuổi, tức là Lý Nhân Tông.
Thuyết khác cho rằng, chùa Hà được xây dựng lên để vua Lê Thánh Tông (trị vì 1460-1497) bày tỏ lòng nhớ ơn các đại thần Nguyễn Trãi, Nguyễn Xí, Đinh Liệt đã cưu mang mình và phế bỏ Lê Nghi Dân để đưa mình lên ngôi vua vào năm 1460.
Trải qua bao phen binh hỏa, Thánh Đức tự đã bị phá hủy nhiều lần. Đến năm 1680 chùa vẫn còn lợp lá gồi, tường xây bằng gạch vồ nên người dân gọi là chùa Vồi. “…đến đời vua Lê Hy Tông có 2 người làng Thổ Hà sang ngụ để bán các hàng gốm. Hai người này làm ăn phát đạt đã cúng tiền để xây dựng chùa bằng gạch ngói vào năm Chính Hoà nguyên niên (1680). Từ đó, 2 làng Thổ Hà và Dịch Vọng Trung kết nghĩa, đặt tên xóm và chùa là Bối Hà nên cũng từ đó có tên là chùa Hà.”[1] Đến ngày kỵ hàng tháng, hàng năm ở Thổ Hà, nhân dân xóm Bối Hà cử đoàn đại biểu sang lễ và ngược lại.
“Chùa đã bị giặc Pháp đốt phá vào năm 1947 nên các tượng Phật bị thiêu huỷ không còn, phần lớn là mới được tạo tác từ sau năm 1950, có thể chỉ có tượng Đức Ông và Phật bà Quan Âm là cũ xưa. Chùa có một quả chuông đúc năm Cảnh Thịnh thứ 7 đời Tây Sơn, chuông cao 1,3m có khắc chữ “Thánh Đức tự chung”. Chuông có bài văn chuông do Nguyễn Khuê viết nói về những người cúng tiền đúc chuông. Đến thời Nguyễn Gia Long có lệnh xoá các dấu vết thời Tây Sơn, dân Bối Hà đem chuông giấu xuống ao làng, sau đó khi xây lại Tam Quan mới vớt lên, nên niên hiệu chuông không bị đục như nhiều chuông khác.”[2]
Phường Dịch Vọng và Ban quản lý di tích chùa triển khai nâng cấp, xây dựng lại chùa Hà và đình Bối Hà rất khang trang, bề thế từ năm 1995 – 2003, Tam Quan được giữ nguyên vẹn.
Kiến trúc cảnh quan
Các công trình kiến trúc của chùa được quy hoạch tập trung trong một khoảng không gian rộng thoáng.
Tam Quan xây hai tầng có hệ thống cầu thang ở phía trái. Tầng trên xây kiểu chồng diêm, giữa bờ đinh mái thượng đắp nổi hình mặt trời lửa đặt trên hình hổ phù, hai đầu kìm đắp hình rồng đuôi xoắn, miệng ngậm bờ nóc, mái lợp giả ngói ống. Tầng dưới chia làm ba gian, với 12 cột trụ xây nổi trên mặt tường. Tam Quan có ba vòm cửa, cửa giữa rộng hơn.
Tầng hai Tam Quan treo chuông đồng Thánh Đức tự chung niên hiệu Cảnh Thịnh thứ 7 (1799). Chuông cao 1m2, chu vi đáy 1m8 được đúc tinh tế, phần trên bốn múi chuông được khắc nội dung văn chuông, phần dưới được khắc tứ linh: long ly quy phượng cách điệu mà rất sống động. Phía trên là hai con bồ lao đầu nhìn về hai phía, bốn chân gắn chặt vào chuông.
Sau Tam Quan là vườn cây xanh, hồ nước hình bán nguyệt, cây đa và sân chùa. Bên cạnh hồ nước là bia đá bốn mặt Thánh Đức tự bi mới được phục chế gần đây. Ba mặt bia khắc chữ Hán theo nội dung lưu tại Thư viện Viện nghiên cứu Hán nôm, một mặt bia khắc chữ quốc ngữ. Bia chùa tạo năm Chính Hòa thứ 16 (1695), Tri huyện Nguyễn Đình Trạch soạn văn bia. Ở bên phải trước cửa chùa đặt 18 tấm bia hậu được tạo vào cuối thời Nguyễn ghi việc tu sửa và gửi hậu tại chùa.
Chùa Hà nhìn ra hướng Tây, chùa chính kết cấu kiểu chữ Đinh có Tiền Đường và Thượng Điện, Tam Bảo năm gian rộng. Trong Tam Bảo, gian giữa được bố trí nhiều lớp tượng. Trong đó, lớp cao nhất là bộ tượng Tam Thế, đại diện cho Đức Phật ở thì hiện tại, quá khứ và tương lai; lớp thứ hai là tượng A Di Đà và Quan Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát.
Phía sau chính điện là Nhà Mẫu, gồm phía trước là phương đình, phía sau là toà nhà 5 gian. Ở phương đình có đặt đỉnh hương và đôi hạc lớn. Trong gian thờ, gian chính giữa đặt Mẫu Thượng Thiên trang phục màu đỏ, bên trái là tượng Mẫu Thượng Ngàn trang phục màu xanh, bên phải là tượng Mẫu Thủy trang phục màu trắng, ngoài ra còn có tượng các ông hoàng, bà chúa, tượng cô cậu khác. Đặc biệt là bức phù điêu Bát Tiên treo bên trái hồi rất sống động. Bàn thờ phía dưới cùng của Điện Mẫu là Ngũ Hổ thần quan, hay gọi nôm là Quan Năm Dinh, biểu tượng bằng 5 mãnh hổ với màu sắc khác nhau.
Hiện vật
Ở chùa Hà cách đây vài năm còn lưu giữ nhiều hiện vật cổ bằng gốm như bát hương, chĩnh, ang, vại đựng nước thể hiện sự tôn kính và tín ngưỡng của người Thổ Hà xứ Kinh Bắc xưa kia. Năm 2009, những hiện vật này đã bị bỏ đi hết, bát hương gốm cổ được thay thế bằng đồ đồng có khắc tên người công đức, đồ sành đựng nước thay bằng vòi nước máy.
Xếp hạng
Chùa Hà đã được Bộ Văn hoá – Thông tin xếp hạng di tích kiến trúc lịch sử nghệ thuật ngày 11/5/1995.
Chú thích
[1] Nguyễn Thế Long, Phạm Mai Hùng, Chùa Hà Nội, Nxb Văn hoá – Thông tin, 2005, tr. 148.
[2] Nguyễn Thế Long, Phạm Mai Hùng, Chùa Hà Nội, Sđd, tr. 149.
Tham khảo
- Nguyễn Thế Long, Phạm Mai Hùng, (2005), Chùa Hà Nội, Nxb Văn hoá – Thông tin.
- “Ghé thăm chùa Hà: Địa điểm cầu duyên linh thiêng nức tiếng Hà Nội”: https://vinwonders.com/vi/bai-viet-du-lich/chua-ha-dia-diem-cau-duyen-linh-thieng/