Tên gọi và vị trí địa lý
Chùa Kim Quan thuộc thôn Kim Quan, xã Yên Viên, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội, chùa cách trung tâm thành phố Hà Nội khoảng 11km. Hiện tại sư trụ trì chùa Kim Quan là Đại đức Thích Hạnh Tuỳ.
Lịch sử
Xa xưa chùa Kim Quan cũ (chùa Cống Thôn ngày nay) là do cha đỡ đầu của thầy Thích Hạnh Tuỳ là người cai quản, sau khi ông mất, chùa Kim Quan được giao lại cho thầy Thích Hạnh Tuỳ cai quản.
Theo lời kể của người trông coi chùa, từ năm 1971 đê Sông Đuống bị vỡ, thôn Kim Quan chia đất ra làm hai thôn gồm thôn Kim Quan và thôn Cống Thôn, chùa Kim Quan cũ nằm ở phần đất được chia cho thôn Cống Thôn vì vậy từ chùa thôn Kim Quan trở thành chùa của thôn Cống Thôn và chùa Cống Thôn ngày nay chính là chùa Kim Quan ngày xưa.
Sau khi chùa Kim Quan cũ thuộc về địa phận thôn Cống Thôn và đổi tên thành chùa Cống Thôn thì làng Kim Quan lúc bấy giờ chưa có chùa nên vào năm 2008 Đại Đức Thích Hạnh Tuỳ đã đứng ra xin đất của dân làng và quyên góp tiền để kêu gọi nhân dân cùng sức xây dựng chùa Kim Quan mới cho làng. Cho đến hiện tại do nguồn kinh phí không đủ nên chùa Kim Quan vẫn đang chưa được hoàn thiện.
Kiến trúc
Chùa Kim Quan nằm trên thế đất rộng, có nhiều cây cối xung quanh, sân vườn rộng được trồng cây ăn quả, trước mặt chùa có một ao làng, tạo không gian thoáng mát cho ngôi chùa. Kiến trúc chùa Kim Quan hiện tại gồm: Cổng, Tam Bảo, Nhà Mẫu, Nhà Tổ, Nhà Bếp, Nhà Vong, Nhà Tịnh Xá, trước mặt chùa có một ao làng rộng, tạo không khí thoáng mát cho ngôi chùa.
Cổng chùa
Cổng chùa Kim Quan, rộng khoảng 2m, cổng chùa làm hoàn toàn bằng gỗ, được tạo từ hai cột trụ tạo thành, cửa 2 cánh bức bàn, cổng 2 mái lợp ngói hệ thống dạng ống.
Tam Bảo
Qua cổng là con đường lát gạch, toà đầu tiên nằm bên phải là tòa Tam Bảo, đây là kiến trúc hiện tại vẫn đang chưa được hoàn thiện. Sân trước mặt tòa Tam bảo được lát nền xi măng, đặt các chậu cây cảnh.
Tam Bảo xây theo kiểu đầu hồi bít đốc, kiến trúc chữ Đinh, xây tường hệ mái khung thép, gồm 3 gian 2 chái, 3 gian giữa làm cửa ra vào, hai gian bên đầu đốc được xây kín và trổ cửa sổ, có hiên rộng 1,5m, phần mái chưa có nóc nhà, được lợp tạm bằng mái tôn và toàn bộ tòa tam bảo vẫn để mộc nguyên bản, chưa được trát vữa và sơn, nền nhà cao hơn nền sân 7 bậc thềm lên xuống.
Bên trong còn rất thô sơ, gian bên trái là gian thờ tượng Phật Bà Quan Âm, gian giữa là gian thờ chính, được xây các cấp kệ gạch theo từ thấp đến cao, chạy dài vào Hậu Cung, bên trên các kệ có các tượng Phật và bày biện các đồ thờ cúng, gian bên phải là nơi đặt bộ bàn ghế để tiếp khách.
Nhà Mẫu
Nằm phía sau tòa Tam Bảo là một khoảng sân gạch, đây là khoảng sân trước Nhà Mẫu và Nhà Vong.
Nhà Mẫu gồm 5 gian với cấu trúc đầu hồi bít đốc, đầu đốc ở hiên được trổ cửa ra vào, phần hiên có 5 cột tròn là hệ thống cột đỡ khung mái nhà, từ sân lên hiên gồm 5 bậc thềm lên xuống, các cửa ra vào đều làm cửa bức bàn.
Bên trong Nhà Mẫu 3 gian giữa là nơi đặt các ban thờ, hai gian ở hai bên đầu hồi được đóng kín cửa. Tính từ ngoài vào trong, gian bên trái là ban Sơn Trang, gian giữa là gian thờ chính gồm các tượng Tam Toà Thánh Mẫu, tượng Ông Hoàng,… Còn gian bên phải la gian Trần Triều. Nhà Mẫu có kiến trúc chồng rường, các hệ thống mái hoàn toàn bằng gỗ, bên trong các gian đều được làm cửa võng sơn thếp vàng, trang trí các hoạ tiết, tứ linh, hoa lá. Ở các vị trí cột được treo các câu đối, trên mỗi gian đều treo bức Hoành phi viết bằng chữ Hán.
Nhà Vong
Cùng chung một khoảng sân và nằm đối diện nhà Mẫu là nhà Vong, nhà được xây nền cao hơn nền sân 2 bậc thềm, gồm 5 gian, cửa bức bàn, hệ thống khung mái gỗ, gồm các cột ở mái hiên, có trổ cửa ra vào mái vòm, mái nhà lợp ngói đỏ. Bên trong nhà Vong kiến trúc khá đơn giản, 3 gian giữa là nơi đặt các ban thờ, gian giữa có đặt tượng Địa Tạng, gian bên tay phải là ban thờ nhỏ đặt các di ảnh người mất được người thân gửi lên chùa.
Nhà Tịnh Xá
Qua khoảng sân nhà Mẫu là khoảng đất vườn hình vuông có hàng rào xung quanh, bên trong trồng các loại cây ăn quả, nằm trong khuôn viên đất vườn này là dãy nhà Tịnh Xá, nhà gồm 3 gian rộng, lợp mái ngói, đây là dãy nhà nghỉ ngơi dành cho những người tu hành, phật tử trong chùa.
Nhà Tổ
Qua khu vườn là khoảng sân lát gạch đá, đây là khoảng sân của nhà Tổ, với dãy nhà 5 gian hai dĩ, từ sân lên nền nhà gồm 5 bậc thềm, ở bậc thềm gian giữa được đặt tượng rồng ngậm ngọc ở hai bên tạo thành hai thành bậc thềm, phía trước bậc thềm đặt lư hương lớn với kiến trúc trang trí rồng nổi và hình hổ phù.
Nhà thờ tổ quay mặt hướng ra khu vườn và nhà Tịnh Xá, nằm ở sau lưng và song song với Tam bảo. Toà có mái hiên, đầu hồi ở hiên được trổ cửa để đi xuống nhà bếp, các cột ở hiên được khắc nổi chữ Hán, mái lợp ngói mũi hài.
Phía hai đầu đốc ở phần bậc thềm được xây hai trụ biểu hai bên, thân cột được vẽ nổi dòng chữ Hán, phần lồng đèn cột trang trí hình rồng ở các mặt, đỉnh trụ gắn 4 hình chim phượng, từ cột trụ được nối liền với bức tường lửng nối liền với hiên nhà thờ Tổ, tường lửng chạm khắc chim phượng và hoa cúc.
Bên trong Nhà Tổ 3 gian giữa là nơi đặt các gian thờ, hai gian ở đầu hồi hai bên được khoá cửa kín. Gian giữa là gian thờ chính Nhà Tổ, bệ thờ được xây cao và lát gạch đá hoa, bên trên bệ đặt các đồ thờ cúng và không có tượng, phía trên cửa võng có treo hoành phi dạng cuốn thư khắc chữ Hán. Ở hai gian bên có đặt hai tượng Hộ Pháp, tượng được đặt trực tiếp dưới nền nhà, với dáng ngồi, tay cầm binh khí canh giữ cho gian thờ Tổ. Các gian thờ đều được làm cửa võng sơn thếp vàng, trang trí dày các hoạ tiết hổ phù, hoa lá, chim phượng, các câu đối và các bức hoành phi khắc chữ Hán.
Nhà Tổ có hệ thống mái ngói mũi hài, ở giữa bờ nóc được đặt một trụ biểu dạng cuốn thư đề chữ Hán “ 堂祖本” dịch “Phụng Tổ Đường”.
Nhà bếp
Nằm sát bên đầu đốc của nhà Tổ là dãy nhà bếp, dãy nhà 2 gian nhỏ, lợp mái ngói, khung mái gỗ, nền cao bằng nhà Tổ, đây là nhà bếp phục vụ cho việc đun nấu của chùa, hiện tại đang để củi và gỗ.
Tài liệu tham khảo
- Tư liệu thực tế tại chùa Kim Quan