Tên gọi và vị trí địa lý
Chùa Mỹ Cụ, tên chữ là Sùng Khánh tự. Chùa được xây dựng ở làng Mỹ Cụ nên lấy tên làng đặt cho chùa. Tên làng được xuất phát từ truyền thuyết: “Tương truyền xưa vua Trần Nhân Tông lên núi Yên Tử đi tu, dân làm cỗ ngon dâng vua, nên đặt tên là Mỹ Cụ” còn tên Sùng Khánh tự mang ý nghĩa đề cao Phật pháp vô biên, khánh có nghĩa là tốt lành.
Chùa Mỹ Cụ tọa lạc bên sườn núi Chè (ngọn núi mang hình con rùa), thuộc thôn Mỹ Cụ, phường Hưng Đạo, thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh.
Lịch sử và nhân vật
Thời Trần, Phật giáo phát triển rực rỡ và tầm ảnh hưởng lan rộng đến nhiều lĩnh vực của cuộc sống. Sau khi vua Trần Nhân Tông – vị Tổ sáng lập Thiền phái Trúc Lâm qua đời, Thiền sư Pháp Loa được truyền Pháp y và trở thành vị Tổ thứ 2 của Thiền phái này. Dưới thời Tổ Pháp Loa, giáo lý Trúc Lâm phát triển rộng khắp vùng Đông – Bắc. Thời kỳ này có 800 ngôi chùa lớn nhỏ được dựng lên, trong đó có chùa Mỹ Cụ ở Đông Triều, Quảng Ninh.
Kiến trúc cảnh quan
Qua tư liệu văn bia và truyền thuyết của nhân dân địa phương, chùa Mỹ Cụ được xây dựng vào thời Trần, khi Phật giáo Đại Việt đạt đến sự cực thịnh, trải qua thời gian dài, chùa bị xuống cấp và được trùng tu nhiều lần vào các năm: Cảnh Hưng thứ 2 (1741), Cảnh Thịnh thứ 8 (1800), Gia Long thứ 18 (1819), Tự Đức thứ 11 (1858) và Thành Thái thứ 11 (1899).
Khi xây dựng, ban đầu chùa Mỹ Cụ có kết cấu chữ Đinh. Về sau, chùa được mở rộng khang trang gồm Chùa Chính, Nhà Tổ, Nhà Tăng theo lối kiến trúc tổng thể hình chữ Khẩu. Cuối thời Nguyễn, chùa bị tàn phá nặng chỉ còn lại kiến trúc chính là chùa chữ Đinh nhưng kết cấu và điêu khắc may mắn còn giữ lại khá trọn vẹn.
Chùa có tổng diện tích khoảng hơn 600m2 gồm các hạng mục kiến trúc: Chùa Chính, Nhà Tổ, Nhà Mẫu, Nhà Tăng, sân,… Chùa Chính kiến trúc hình chữ Đinh, có 7 gian Bái Đường và 3 gian Hậu Cung, tường xây gạch đỏ, móng bằng đá. Nền chùa cao hơn sân chừng 1,1m; mái lợp ngói mũi hài thời Lê. Hai hồi nhà bít đốc, trên bờ nóc đắp nổi hình 2 con nghê chầu vào, chính giữa mái là bức đại tự đắp nổi chữ “Sùng Khánh tự”. Hậu Cung tuy mới tu sửa nhưng vẫn giữ được nét truyền thống của ngôi chùa cổ. Toàn bộ hệ thống vì kèo, cột đều bằng gỗ lim. Vì kèo kết cấu kiểu giá chiêng chồng rường với 4 hàng chân cột. Cột cái có đường kính 30cm, cột quân 25cm kê trên các tảng đá xanh.
Hiện vật
Hiện chùa còn lưu giữ được 126 hiện vật có giá trị, trong đó có những hiện vật mang giá trị về nghệ thuật điêu khắc có niên đại thời Lê, Tây Sơn và Nguyễn gồm tượng, bia đá, tháp, chiêng đồng, chuông đồng, câu đối, đại tự,..
Hầu hết các tượng như A Di Đà, Thích Ca Mâu Ni, Nam Tào, Bắc Đẩu, Đức Thánh Hiền, Hộ pháp Khuyến Thiện – Trừng Ác, Đức Ông, Địa Tạng Bồ Tát, Sơn thần,… đều được tạc từ đất với dáng vẻ, kích thước cân đối, hài hòa, bên ngoài tượng được phủ sơn son thếp vàng.
Trong số tượng kể trên, tượng Phật A Di Đà được tạc vào thời Nguyễn có kích thước lớn nhất. Theo ông Nguyễn Văn Tuấn – cán bộ văn hoá phường Hưng Đạo cho biết: tượng cao 1,5m; đắp bằng đất, trấu, mật mía. Từ màu sắc, hình khối tới dáng vẻ, các nếp gấp của các y phục, gương mặt… đều hài hòa, đạt giá trị thẩm mỹ.
PGS.TS Trần Lâm Biền, nhà nghiên cứu Di sản văn hóa Việt Nam, cho biết, các tượng đất có từ thế kỷ XVIII nhưng phát triển chủ yếu dưới thời Nguyễn, thế kỷ 19 và 20, để đáp ứng nhu cầu tâm linh thời bấy giờ. Về tượng đất ở chùa Mỹ Cụ, tính chất dân gian rất rõ rệt. Những người đắp tượng đã làm tượng không theo bài bản, hay quy định cụ thể nào của tôn giáo, tín ngưỡng, mà làm theo mẫu sẵn. Song hầu hết lại không làm y nguyên mẫu mà có sự sáng tạo, do đó đã tạo nên cho các pho tượng này có vẻ đẹp “đột ngột”, và điều này chính là vẻ đẹp của lịch sử, chúng ta cần phải tôn trọng.
Cũng theo PGS.TS Trần Lâm Biền thì hầu hết các bức tượng được đắp là đất sạch, được lấy từ ruộng sạch, vì cửa Phật là nơi tôn nghiêm, thanh tịnh. Sau khi đất đào lên đem phơi thật khô, đập nhỏ thành bột, sàng lọc kỹ, khi bột đất đã mịn, thật mát tay mới dùng làm tượng. Bột đất sét được nhào trộn với nước vôi, rễ si, mật mía, giấy bản, mùn cưa, vỏ trấu. Sau khi định hình tượng các khối cơ bản, các nghệ nhân mới bắt đầu đi sâu diễn tả, gọt tỉa các chi tiết, đánh bóng các mảng khối của tượng Phật. Chính quy trình làm nên những bức tượng vô cùng tỉ mẩn như vậy nên nếu không có sự tàn phá của thiên nhiên hoặc con người thì những pho tượng bằng đất đều có độ bền gần như là vĩnh cửu đối với thời gian.
Theo sư thầy Thích Tịnh Hòa, trụ trì chùa Mễ Cụ, các pho tượng tại chùa Mỹ Cụ đã có dấu hiệu xuống cấp nghiêm trọng. Có những chỗ bị chuột đục, nhà chùa đã tạm bồi đắp lại để chuột không đào hang. Hy vọng chính quyền, cơ quan chức năng sẽ có các biện pháp trùng tu, tôn tạo để bảo tồn các pho tượng bằng đất còn lại ở chùa Mỹ Cụ.
PGS.TS Trần Lâm Biền cho rằng, việc tu bổ các pho tượng bằng đất chỉ có thể sửa bằng chính các đất luyện. Những người tham gia vào quá trình tu bổ phải có trách nhiệm nghiên cứu chất đất để làm tương đồng với những pho tượng cũ, thể hiện được đường nét nghệ thuật, có sự thống nhất giữa các cơ quan chuyên môn và tỉnh Quảng Ninh thì luôn làm rất tốt những điều này.
Lễ hội
Chùa có tổ chức lễ hội đầu xuân trong 3 ngày, từ 10 đến 12 tháng Giêng. Các cụ ông mặc áo dài khăn xếp, cụ bà mặc áo nâu, đeo tràng hạt tập trung tại chùa tụng kinh niệm Phật.
Xếp hạng
Chùa Mỹ Cụ đã được công nhận Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia năm 2000.
Tham khảo
- “Chùa Mỹ Cụ (Sùng Khánh tự)”, Cổng thông tin điện tử ngành Giáo dục và đào tạo TP Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh, ngày 2/1/2019.
- Vân Hồng, “Độc đáo những pho tượng đất ở chùa Mỹ Cụ”, báo Quảng Ninh điện tử, ngày 4/7/2021.
- Phan Thị Thuý Vân, “Chùa Mỹ Cụ”, website Bảo tàng Quảng Ninh, ngày 7/7/2021.