Giới thiệu
Chùa Tiên Châu, tức Tiên Châu Tự, còn có tên là chùa Di Đà; là một ngôi chùa cổ nhất ở tỉnh Vĩnh Long (Việt Nam).
Chùa Tiên Châu nằm trên bãi Tiên, bên tả ngạn sông Cổ Chiên, thuộc cù lao An Bình (tên tục là cù lao Táng). Xưa nơi đây thuộc làng Bình Lương và An Thành (nay là ấp Bình Lương, xã An Bình), huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long.
Mặc dù chỗ ngôi chùa tọa lạc cách trấn thành Vĩnh Long không xa (chỉ cách có con sông Cổ Chiên), song ở đây không khí tĩnh mịch, cây cối tốt tươi, nhà ở thưa thớt. Theo truyền thuyết, vào những đêm trăng thanh gió mát, thỉnh thoảng có tiên nữ xuống trần tắm gội và đùa giỡn. Do đó, bãi sông này được đặt tên là bãi Tiên (Tiên Châu) hay bãi Bích Trân. Ngoài ra, vì vùng đất này có nhiều rạch nhỏ, ghe thuyền có thể qua lại dễ dàng nên còn tên là bãi Bát Tân (có nghĩa là đi bốn phương tám hướng).
Chùa Di Đà ở trước bãi Bích Trân, thuộc địa phận huyện Vĩnh Bình, do Hòa thượng Hoàng Đức Hội dựng, nước chảy vòng quanh, am viện thanh u, tục gọi chùa Tiên Châu, lại gọi là chùa Tô Châu.
Nói về bãi Tiên, trong sách Gia Định thành thông chí có đoạn:
Ở phía bắc trấn thành, chu vi 12 dặm, sắc cây xanh biếc, ánh nước long lanh như ngọc bích. Lại có tên là Bát Tân, ý nói bến nước thông cả tám hướng. Nơi này làm cồn cát bảo vệ cho sông Long Hồ, hai bên khép lại như cái vạt áo, quanh vòng ôm lấy hai thôn Bình Lương và An Thành. Bên bờ có những ngư dân phơi lưới, treo tơi, ẩn hiện nơi ngọn rừng, gốc cây. Sông thu thuyền câu giỡn nguyệt, hát hò dưới rặng bần, lênh đênh bên cồn cát trắng, bập bềnh qua lại, tạo nên lạc thú của dân chài.
Lịch sử
Khoảng giữa thế kỷ XVIII ở nơi bãi Tiên đã có một am nhỏ bằng tranh tre vách lá, gọi là am Bãi Tiên. Người gây dựng là Hòa thượng Giác Nguyên (trụ trì: ? -1801), người gốc Thừa Thiên, đệ tử của Thiền sư Liễu Quán (? – 1743), theo phái Tịnh độ tông, thờ Phật A-di-đà.
Năm 1801, sau khi Hòa thượng Giác Nguyên viên tịch, Ni sư Diệu Thiện đến chăm nom am Bãi Tiên. Đến đây, ni sư đã vận động tín đồ và khách thập phương quyên góp tiền của, cất lại am, rồi đổi tên gọi là chùa Bãi Tiên.
Tiếp theo là Giáo thọ Huỳnh Văn Lương (trụ trì: 1828), Hòa thượng Tăng Chiếu (trụ trì: 1829-1858), và đến khi Hòa thượng Hoàng (hay Huỳnh) Đức Hội (pháp danh Tánh Minh, đời 39 phái Lâm Tế dòng Liễu Quán) làm trụ trì (1858-1881), thì chùa Bãi Tiên được tạo dựng lại bằng gỗ (do những người buôn gỗ từ Campuchia về bán ở chợ Vĩnh Long hỷ cúng), rồi đổi tên là Tiên Châu Di Đà Tự. Cho nên sách Đại Nam nhất thống chí ghi Hòa thượng Hoàng Đức Hội chính là người đã “dựng” chùa Tiên Châu.
Sau Tết Mậu Thân (1968), chùa lại bị chiến tranh làm cho hư hại nhiều. Vì thế, ông Đốc phủ Võ Văn Châu đã đứng bán 5 cây sao của chùa đồng thời vận động tín đồ và khách thập phương, để có tiền trùng tu lại chùa. Theo bản thiết kế của Hòa thượng Thiên Hương từ Sài Gòn đem về, nội điện vẫn giữ như cũ, dựng lại mặt tiền bằng vật liệu bê tông. Sau đó, chùa có chiều dài 46 m, rộng 20 m. Trên nóc có 5 ngọn tháp, tháp ở giữa là lớn hơn cả, chánh giữa tháp treo biển Tiên Châu Tự.
Năm 2009, cổng chùa Tiên Châu lại được xây mới và toàn bộ ngôi chùa cũng được sơn lại.
Kiến trúc
Chùa Tiên Châu do Hòa thượng Hoàng Đức Hội dựng có hình chữ “tam”, gồm ba gian nối liền nhau là chánh điện, hậu tổ và hậu liêu. Trong chùa có tất cả 96 cột gỗ tròn bằng danh mộc, các kèo, xuyên, trính bằng căm xe, gõ đỏ được chạm trỗ khéo léo của các nghệ nhân địa phương và từ Huế vào. Sau đó, chùa Tiên Châu còn được trùng tu nhiều lần, mà lần sửa đổi quan trọng nhất là vào năm Kỷ Hợi (1899).
Qua mỗi đời các nhà sư trụ trì, chùa Tiên Châu đều được trùng tu, kiến tạo cho đẹp hơn. Năm Mậu Thân (1968), chùa được xây dựng lại, nhưng vẫn giữ quy mô xây dựng năm 1899, gồm bốn nóc, tiền đường, chánh điện, trung đường và hậu tổ. Các khu vực này làm theo kiểu tứ trụ, được nới rộng theo chiều ngang dọc nhờ các kèo đầm kèo quyết.
Bộ giàn trò bằng gỗ quý, mái ngói âm dương… Chùa rộng 20 mét, dài 46 mét, trên nóc giữa chánh điện có 5 ngọn tháp mà tháp chính giữa là cao lớn hơn hết,chánh giữa tháp treo biển Tiên Châu Tự.
Nội điện chùa được trang trí đẹp đẽ, trang nhã. Giữa tứ trụ là khánh thờ, bên trong tôn trí pho tượng Phật Di Đà khổng lồ. Hai bên khánh thờ là câu đối khắc dòng chữ: “Phật nhật tăng huy vĩnh thùy vạn cổ / Pháp luân thường chuyển biến thập phương”.
Dưới tượng Phật Di Đà là bộ tượng Tam Thế Phật, tượng Phật Thích Ca tọa thiền, Phật Thích Ca đản sinh. Phía sau tượng Phật Di Đà là tượng Phật Di Lặc cũng to lớn đặc biệt… Hai bên vách hông là khánh thờ thần Già Lam, khánh thờ tổ sư Bồ Đề Đạt Ma, Thập điện Diêm vương, Ngọc Hoàng Thượng đế, Nam tào, Bắc đẩu, Địa Tạng, Chuẩn Đề, Hộ pháp, Tiêu Diện đại sĩ… Tất cả các pho tượng nầy đều được đắp tạc khéo léo, công phu, đậm nét mỹ thuật, được sơn son thếp vàng đẹp đẽ. Nhưng độc đáo nhất là bằng mắt thường không ai có thể biết đó là các pho tượng đắp bằng đất sét.
Trong khuôn viên, phía trước chùa có tượng Phật Bà Quan Âm đứng uy nghi trên đài sen, tay cầm bình nước cam lồ tưới nhuần ơn phước cho chúng sinh. Bên trái chùa là tượng Phật Thích Ca tĩnh tọa dưới sự che chở của chín con rồng, đằng sau là cội bồ đề râm mát. Bên phải chùa là tượng Phật Di Lặc với nụ cười viên mãn cho một thời kỳ mai sau con người sống hết sức an lạc…
Giá trị nổi bật
Sau hàng trăm năm hình thành và phát triển, chùa Tiên Châu được công nhận là Di tích lịch sử – văn hóa cấp Quốc gia theo Quyết định số 3211/QĐ, ngày 12-12-1994.
Chùa Tiên Châu là một ngôi cổ tự đẹp đẽ, bãi Tiên là một thắng cảnh. Do đó, từ xưa đến nay có nhiều tài tử giai nhân đến viếng cảnh, ngâm vịnh. Đáng chú ý có bài của Đốc phủ sứ Nguyễn Hữu Đức như sau:
Tiên Châu giăng trước Vĩnh Long thành
Đây rộn rịp nhiều đó vắng tanh.
Khuất nửa cỏ cây nhà trắng trắng,
Chia hai trời nước liễu xanh xanh.
Cảnh người ngày tháng ba thằng mục,
Chùa Phật hôm mai một tiếng kình.
Danh lợi vì đây lòng chẳng tưởng,
Bốn mùa phong cảnh có ai tranh.
Tham khảo
- https://vi.wikipedia.org/wiki
- https://poliva.vn/chua-tien-chau/
- http://landtoday.net/chua-tien-chau-tren-cu-lao-an-binh-vinh-long-d10647.html