Tên gọi và vị trí địa lý
Đình Định Công Thượng hiện tọa lạc tại số 305, phố Bùi Xương Trạch, phường Định Công, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội. Trải qua thời gian, cùng những đổi thay về địa danh hành chính, làng Định Công vẫn giữ được tên gọi thân thuộc và những truyền thống văn hoá tốt đẹp chung của người dân vùng châu thổ sông Hồng. Định Công là một làng cổ, nằm kề bên bờ sông Tô Lịch, trong địa bàn sinh tụ chính của cư dân Việt cổ thời dựng nước, nên nơi đây đã trở thành một vùng quê sầm uất, cư dân đông đúc.
Lược sử
Theo các nguồn tư liệu Hán nôm như: thần tích, sắc phong, hoành phi, câu đối… cho biết đình Định Công thờ Hoàng Công (Chàng Sơ), là người văn võ song toàn. Truyền thuyết kể lại rằng: Đời vua Hùng Nghị Vương, khi từ châu Ái (Thanh Hoá) về, vua cùng bà phi ngự thuyền dọc sông Tô Lịch. Thuyền đến bến sông, bà phi trở dạ sinh được một người con trai tướng mạo khôi ngô đặt tên là Hoàng Công, sau lưng có 28 chiếc vảy hình 28 ngôi sao. Dân làng dựng nhà cho bà phi tá túc, chăm sóc sinh nở. Vua bèn thưởng cho dân làng 1000 quan tiền và đặt tên là trang Định Công.”[1]
Năm ông 16 tuổi, trời làm đại hạn, nhân dân nhiều nơi đói khổ, ông lập đàn làm lễ cầu mưa. Ông đi đến đâu, thì cuộc sống ở đó yên ổn, trời đất mát mẻ, nhân dân no ấm, ai cũng đều phấn khởi. Ít lâu sau, các châu Hoan, Đông Hý, Hàn có giặc, ông nhận lệnh Vua chỉ huy quân đánh một trận dẹp tan quân giặc, bắt sống tướng giặc là Hách Phú. Được vua phong cho chức Phụ chính quốc tể Đông Hý hầu. Khi giặc Thục sang xâm lược, ông cùng với các tướng lĩnh dâng kế đánh giặc. Sau ông được vua giao đi trấn giữ miền bộ Quảng Đông trong 5 năm, trên đường về đến Châu Ái, huyện Hoằng Hoá, cửa bé Bích Hải tự nhiên trời đất tối mù, sóng cồn nổi lên và ông hoá.
Nhà vua được tin rất thương tiếc, xuống lệnh cho dân Bích Hải lập đền thờ. Riêng trang Định Công, cho trùng tu cung miếu. Hàng năm, xuân thu nhị kỳ các quan đến làm lễ. Nơi hành cung được đổi thành đền thờ và phong cho ông mỹ tự “Thượng đẳng phúc thần”, cùng với nhà vua hưởng lộc muôn đời.
Vị thần thứ hai được thờ tại đình là tướng quân Đoàn Thượng, quê ở xã Xuân Độ, huyện Gia Lộc (Hải Dương), em nuôi cùng nhũ mẫu với vua Lý Huệ Tông. Ông là người giương ngọn cờ “phản Trần, phục Lý”, có công chữa khỏi bệnh dịch cho dân Định Công.
Tướng quân được vua Lý cử đi dẹp giặc ở Hồng Châu và trấn thủ vùng ven biển xứ Đông. Khi nhà Lý mất ngôi, tướng quân về Hồng Châu đắp thành lũy ở vùng An Nhân, xưng là Đông Hải đại vương, hùng cứ một phương giữ nghĩa lớn không theo nhà Trần. Bấy giờ Nguyễn Nộn chiếm cứ vùng Lạng Giang, Trần Thủ Độ mang quân đi đánh dẹp không hàng phục được, mới chịu phong Nguyễn Nộn làm Hoài Đạo Vương. Trần Thủ Độ dùng mưu sai sứ giả mang hậu lễ cho Nguyễn Nộn, xui Nguyễn Nộn nếu đánh được Hồng Châu, sẽ chia cho một phần ba thiên hạ. Nguyễn Nộn nghe theo, viết thư sai người cầu hoà với tướng quân đại ý trong thư nói: “Trước đây tôi không biết ông có lòng diệt nhà Trần lấy lại giang sơn cho nhà Lý nay được biết lòng trung nghĩa của ông, tôi xin cùng ông hội thề như môi với răng dựa nhau, để khôi phục lại nhà Lý”.
Tướng quân tin lời Nguyễn Nộn, bèn cùng em khác mẹ là Tần Hải Công đem một toán quân về Bắc Giang hội thề. Nguyễn Nộn đặt phục binh ở xứ Đồng Dao, thuộc Yên Phú (Bắc Ninh) đánh úp tướng quân. Tướng quân đương mải đánh Nguyễn Nộn, thì quân nhà Trần từ Ván Giang kéo đến. Tướng quân quay sang phía Tây đánh quân Trần, bị một nhát dao đằng sau chém vào cổ, đầu gần rơi, liền cởi thắt lưng quấn lấy cổ, nổi giận phóng ngựa về phía Đông, đến một gò đất thuộc xã An Nhân, tướng quân xuống ngựa, nằm gối đầu lên ngọn giáo mà hoá. Sau khi tướng quân Đoàn Thượng mất, cảm phục trước tấm lòng trung nghĩa của tướng quân, nhiều nơi trong nước lập đền thờ.
Các đời vua về sau đều ban sắc phong thần và cho phép các nơi lập đền thờ. Theo quan niệm của người xưa, với mong muốn có một vị thần bảo trợ cho cuộc sống nhân dân được bình yên, các vị thần Hoàng Công, Đoàn Thượng được thờ tại đình Định Công cũng không ngoài mục đích đó.
Kiến trúc
Trải qua thời gian tồn tại, ngôi đình đã được trùng tu sửa chữa nhiều lần, kiến trúc hiện nay là dấu ấn của lần trùng tu cuối thế kỷ XX.
Đình Định Công Thượng quay về hướng Tây Nam, nhìn ta một ao nước hình chữ nhật. Đình gồm Tam Quan và và Đại Đình.
Tam Quan xây kiểu nghi môn tứ trụ, trước sân đình là một tấm bình phong đắp cuốn thư. Bên hữu sân đình là một nhà giải vũ 3 gian. Trong vườn có nhiều cây cối che mát.
Toà Đại Đình bố cục theo kiểu chữ “đinh”, Đại Bái 5 gian và Hậu Cung 3 gian. Đại Bái xây theo kiểu tường hồi bít đốc, gồm 6 bộ vì, gian giữa làm kiểu chồng rường bảy hiện phía trước, kèo kẻ suốt phía sau. Bốn vì còn lại làm kiểu vì kèo suốt trụ cột. Hậu Cung làm kiểu chồng rường giá chiêng. Đình đã được tu bổ nhiều lần, có trang trí hoa dây, tích Phật, cánh sen, vân mây, tứ quý. Đặc biệt, ở mảng chạm gỗ có những tác phẩm mô tả Phật tích và ông tiên ngự trên tòa sen, mang đậm phong cách nghệ thuật thế kỷ XVII.
Hiện vật
Trong các di vật gỗ của đình có 2 bộ long ngai, bài vị được chạm trổ tinh vi, trau chuốt với các họa tiết trang trí sóng nước, cánh sen, rồng chầu, hổ phù, vân mây… mang nghệ thuật điêu khắc thế kỷ XVIII – XIX. Các bức hoành phi, câu đối, cửa võng được sơn son thếp vàng cũng làm tăng thêm sự trang nghiêm, lộng lẫy cho điện thờ thần.
Đình Định Công hiện còn bảo lưu được bộ sưu tập di vật văn hoá có giá trị lịch sử. Trong đó, 1 cuốn thần tích niên hiệu Vĩnh Hựu 3 (1737) và 3 đạo sắc phong niên đại Tự Đức 13 (1860); Đồng Khánh 2 (1882); Duy Tân 3 (1909) có giá trị đặc biệt hơn cả. Các văn bản này ngoài việc tập trung khẳng định các vị thần Hoàng Công, Đoàn Thượng được thờ tại đây còn minh chứng cho sự ra đời sớm của ngôi đình.
Qua gần 300 năm tồn tại với đầy biến động, nhưng đình Định Công luôn là một trung tâm sinh hoạt văn hoá tinh thần của một cộng đồng dân cư, nơi bảo lưu những truyền thống văn hoá tốt đẹp.
Xếp hạng
Đình Định Công đã được Bộ Văn hoá Thông tin xếp hạng di tích Lịch sử – Nghệ thuật tại Quyết định số 921 – QĐ/BT ngày 20/7/1994.
Chú thích
[1] TS Nguyễn Doãn Tuân (Chủ biên), Di tích lịch sử văn hóa quận Hoàng Mai, Nxb Văn hóa Thông tin, 2010, tr. 205 – 206.
Tham khảo
TS Nguyễn Doãn Tuân (Chủ biên), 2010, Di tích lịch sử văn hóa quận Hoàng Mai, Nxb Văn hóa Thông tin.