Đình Giáp Nhị (Hoàng Mai, Hà Nội)

Đình Giáp Nhị (Hoàng Mai, Hà Nội)

Thông tin cơ bản

Tên gọi là vị trí địa lý

Tại ngõ 141, phố Giáp Nhị, phường Thịnh Liệt, quận Hoàng Mai có một ngôi đình thờ Thành hoàng làng không phải là các thần linh bản địa mà là một vị thần đã sáng lập ra Đạo giáo ở Trung Quốc – Thái Thượng Lão Quân (Lão Tử). Đó là đình Giáp Nhị. Đây là một hiện tượng rất ít gặp trong các ngôi đình làng của người Việt trên đất Thăng Long – Hà Nội.

Lịch sử và nhân vật

Theo nhiều học giả thì vào khoảng thế kỷ thứ II sau Tây lịch, Đạo Giáo đã theo chân các nhà cai trị, trí thức cùng thuật số, phù thuỷ… Phương Bắc bắt đầu du nhập sang Việt Nam. Khác với Nho giáo, khi sang nước ta, Đạo giáo đã bắt gặp ngay những nét tương đồng trong tín ngưỡng bản địa (tục sùng bái thần linh, ma thuật, phù phép…) nên nhanh chóng hòa nhập. 

Kiến trúc thờ tự của Đạo giáo gọi là quán, ở Thăng Long – Hà Nội có rất nhiều quán nổi tiếng như Bích Câu đạo quán, Huyền Thiên cổ quán, Đồng Thiên quán, Nghinh Tiên vọng quán, Trấn Vũ quán, Linh Tiên quán, Lâm Dương quán, Hội Linh quán… Quán thờ Thái Thượng Lão Quân ở nước ta hiện vẫn còn ở rất nhiều nơi, song được thờ ở đình Giáp Nhị lại là một trường hợp khá đặc biệt, Ngài được thờ theo nghi thức thờ Thành hoàng làng.

“Theo già làng thì đình Giáp Nhị có nguồn gốc từ một ngôi đình nhỏ thờ Thổ thần. Đến thế kỷ XVIII, ông Bùi Huy Bích (người làng Giáp Nhị) thi đậu Hoàng giáp khoa Kỷ Sửu (1769) được triều đình thăng giữ chức Đốc trấn Nghệ An, ông đã cho rước bài vị của Thái Thượng Lão Quân từ Nghệ An về thờ tại đình làng.”[1]

Thái Thượng Lão Quân được Đạo giáo đồng nhất với Lão Tử, người đã xây dựng nền học thuyết tư tưởng của Đạo giáo. Truyền thuyết, sử sách ghi chép về ngài khá phong phú, hiện trong đình vẫn còn lưu giữ được cuốn thần tích chép chuyện Lão Tử và một số nhân vật trong Bát Tiên cùng nhiều hoành phi, câu đối có nội dung nói về Đạo giáo, tiêu biểu như các bức đại tự:

Phối thiên kỳ cực

Dịch nghĩa: 

Sánh với trời bằng thái cực và vô cực

Thanh Lâm tự sự

Dịch nghĩa: 

Sách viết tại rừng xanh (của Đạo Lão)

Hay một số đôi câu đối như:

Thần hoá vô phương chiêm Tứ
Khí Đức dung hữu mục phụng Huyền Nguyên

Dịch nghĩa: 

Thần hoá muôn nơi nhờ khí tía
Đức dung có hạn phụng Huyền Nguyên (Lão Tử)

Tượng đế hiển chân thuyên vấn lễ truyền kinh tự tích Thánh hiền thân thụ thụ
Tiên Thiên khai triết học phi đan chủ hống tức kim cách chí thử vu thai

Dịch nghĩa:

Tượng đế tỏ chân thuyên (chân lý) vấn lễ truyền kinh từ xưa Thánh hiền tự giao giảng
Tiên Thiên khai triết học, luyện đan, hấp khí đến nay khoa học vẫn mù mờ.

Duy vạn vạn cao xuất tầm thường danh khả danh đạo khả đạo
Sử nhân nhân quần xu đức giáo gia quán gia hương quán hương

Dịch nghĩa:

Cao siêu vời vợi, vượt trên tầm thường phi thường danh, phi thường đạo
Người người như một tin theo Đạo giáo Quán là nhà, Quán là thôn.

Nguy nguy tuấn cực vô cùng đạo quán cổ tích sổ thiên niên nhi hậu
Hy hy cử gian hàm tại kỳ trung Thiều Quang cửu thập nhật vi xuân

Dịch nghĩa:

Cao cao vời vời Đạo quán vô cùng trải đã mấy ngàn năm cổ tích
Sáng sủa nguy nga đình vũ ngời ngời, Thiều Quang chín chục mấy mươi xuân.

Dòng chữ ghi trên bài vị viết: “Bản xã Thành hoàng Thái Thượng Lão Quân thần vị”.

Qua đây có thể thấy Thái Thượng Lão Quân từ việc thờ trong các di tích Đạo quán đã trở thành một vị Thành hoàng che chở, bảo hộ cho cuộc sống của dân làng đã làm phong phú thêm trong kho tàng văn hoá dân gian của thủ đô Hà Nội đồng thời thể hiện sự đa dạng, phong phú và cởi mở của người Việt đối với các thần linh ngoại bang.

Kiến trúc cảnh quan

Di tích đã qua nhiều lần trùng tu sửa chữa. Quy mô kiến trúc hiện nay là kết quả của những lần trùng tu ở thế kỷ XX. Các hạng mục của đình được quy hoạch trong một khuôn viên khép kín gồm Nghi Môn, Tiền Tế, Trung Đình và Hậu Cung.

Nghi Môn làm dạng tứ trụ. Đỉnh hai trụ chính đắp đôi nghê chầu, hai trụ bên hình chái giành cách điệu. Sau các trụ là 3 cổng có hình thức kết cấu giống nhau, cổng chính có dạng giống như tam quan chùa, hai cổng bên nhỏ hơn chồng diêm hai tầng 4 mái giả ống, đỉnh mái đắp hình rồng chầu mặt trời, thân các trụ đều bổ khung viết câu đối chữ Hán.

Qua Nghi Môn là khoảng sân khá rộng, phía bên phải đình là giếng đình ta bước vào kiến trúc chính.

Đình Giáp Nhị gồm 5 gian Tiền Tế, 5 gian Trung Tế và 3 gian Hậu Cung tạo thành hình chữ Đinh. Nhà xây kiểu tường hồi bít đốc, mái ngói ta, giữa bờ nóc đắp hình rồng chầu mặt trời, hai bên gắn hai đầu kìm. Bộ khung các nếp nhà được làm bằng gỗ, kết cấu theo kiểu: “giá chiêng chồng rường con nhị”. Phần trang trí trên kiến trúc chủ yếu tập trung trên các con rường, dầu dư, bẩy hiên, cốn nách các đề tài: rồng lá, lá lật, vân xoắn, vân dấu hỏi … với đường nét tinh tế, khéo léo, đã nâng giá trị chạm khắc gỗ ở di tích lên rất cao.

Hiện vật

Hệ thống di vật của đình đa dạng về thể loại và chất liệu như đồ gỗ, đồ đồng, đồ gốm sứ… Những bức cửa võng, hương án, sập thờ, cuốn thư, ngai thờ, kiệu rước, hoành phi, câu đối, bát bửu, lư hương… với đề tài truyền thống như: “tứ linh”, “tứ quý”, cúc mãn khai, rồng chầu mặt trời, rồng lá, hổ phù ..có thể ví như một bảo tàng mỹ thuật thu nhỏ minh chứng cho sự ra đời, tồn tại và phát triển của di tích qua từng thời kỳ khác nhau.

Lễ hội

Hàng năm, dân làng Giáp Nhị lại mở hội để tưởng nhớ đến công lao của Thành hoàng làng đối với dân bản xã. Theo Hương ước làng Giáp Nhị thì trước năm 1945, hội mở trong 4 ngày (từ ngày 13 đến ngày 16 tháng 2 Âm lịch), trong đó: ngày 13 làm lễ tế mộc dục, ngày 14 tế mã, ngày 15 tế rước nước, ngày 16 tế hoàn cung.

Kiệu rước thành hoàng được rước ra miếu, rồi rước về chùa Sét. Vào những năm mở hội lớn đoàn rước đi xa hơn xuống tận chùa Tự Khoát lấy nước giếng về tế thần. Lễ vật dâng cúng thần hoàng gồm trâu thui, xôi trắng, lợn, trầu cau, oản quả. 

Ngày nay lễ hội đình Giáp Nhị chỉ tổ chức trong một ngày 15 tháng 2 Âm lịch). Các sản vật dâng cúng Thần hoàng có hương đăng oản quả. Ngoài phần lễ còn duy trì được nhiều trò chơi dân gian truyền thông như đấu vật, cờ tướng…

Xếp hạng

Đình Giáp Nhị đã được UBND thành phố Hà Nội ra Quyết định xếp hạng số 185/QĐ-UBND ngày 7/2/2002.

Chú thích

[1] TS Nguyễn Doãn Tuân (Chủ biên), Di tích lịch sử văn hóa quận Hoàng Mai, Nxb Văn hóa Thông tin, 2010, tr. 295.

Tham khảo

TS Nguyễn Doãn Tuân (Chủ biên), 2010, Di tích lịch sử văn hóa quận Hoàng Mai, Nxb Văn hóa Thông tin.

5/5 (2 bình chọn)

Hình ảnh

Chia sẻ

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *


Banner App ChỐn ThiÊng 3 (60x90)