Vị trí
Đình thần Thông Tây Hội nằm ở phường 11, quận Gò Vấp, TP. Hồ Chí Minh từ lâu đã nổi tiếng là ngôi đình lâu đời nhất không chỉ ở Sài thành mà cả vùng đất phương Nam.
Đình thần Thông Tây Hội là nơi thờ Thành Hoàng, người bảo vệ cư dân khỏi thiên tai, địch họa, tránh thú dữ…, cụ thể ở đây là thờ hai vị thần Đông Chinh Vương và Dực Thánh Vương, hai hoàng tử con vua Lý Thái Tổ (974-1028). Nhờ hai vị thần này mà đời đời cư dân trên vùng đất mới khẩn hoang được sống trong an yên, mùa màng tươi tốt, con cháu được hưởng phước lành. Do vậy, việc duy trì thờ cúng diễn ra quanh năm, lễ vật cúng thường cũng đơn giản, mùa nào thức nấy, theo sản vật địa phương, chủ yếu bởi tấm lòng thành, thật thà chất phác đúng như bản chất lương thiện của những người dân Nam Bộ.
Lược sử
Theo các cao niên thuộc Ban Quản lý Di tích đình Thông Tây Hội và các tài liệu ghi chép, ngôi đền cổ Thông Tây Hội được lập từ năm 1679, thời điểm phủ Gia Định còn chưa được thành lập. Đó là lúc mà nhóm người gốc vùng Nghệ An, Hà Tĩnh vừa định cư trên vùng đất Gò Vấp ngày nay. Việc lập đình trên vùng đất mới lúc bấy giờ như là một tập quán về sinh hoạt văn hóa của của tiền nhân, một sự nhắc nhớ nguồn cội, vọng cố hương.
Ban đầu, ngôi đình đầu tiên của làng được dựng bằng tre, vách lá và nằm cách ngôi đình hiện tại 800m về phía Nam. Ngôi đình thứ hai được làm bằng gỗ lợp ngói, nhỏ và đơn giản, nằm tại vị trí ngôi đình hiện tại. Chỗ ấy xưa kia được cho là một vùng đồi gò khá cao, diện tích rộng, cây cối um tùm, thú rừng rình rập. Bù lại đất đai màu mỡ, thuận lợi để hình thành nên những thôn, làng…, vị trí nằm bên hữu ngạn sông Sài Gòn, tiện cho giao thông đường thủy.
Đến năm 1883, trải qua nhiều lần dân làng góp công góp sức xây dựng, tu bổ, đình Thông Tây Hội mới có được kiến trúc hoàn chỉnh như hiện nay. Nguồn gốc tên gọi của đình, trước năm 1944 có tên là đình làng Hạnh Thông Tây. Làng Hạnh Thông Tây vốn được tách ra từ làng Hạnh Thông – một trong những làng ra đời từ rất sớm – 1698, thời chúa Nguyễn Phúc Chu. Cái tên đình Thông Tây Hội ra đời năm 1944, khi hai làng Hạnh Thông Tây và An Hội nhập làm một.
Kiến trúc
Xa xưa khu đất đình rộng hơn 5.000m2, theo năm tháng diện tích thu hẹp dần, bây giờ khuôn viên đình còn khoảng 1.500m2. Đình quay về hướng Đông, có 3 công trình chính là chính điện, nhà võ ca và nhà hội sở. Từ cổng chính với đôi rồng được làm theo đề tài lưỡng long triều nguyệt màu xanh ngọc bằng sứ trên mái ngói âm dương đi vào là bia Bạch Hổ, sau đó là bàn thờ Thần Nông, tiếp đến nhà võ ca rồi đi vào chính điện.
Bên phải chính điện là nhà hội sở, bên trái của chính điện có miếu bà chúa xứ. Phía góc phải khuôn viên đình – phía trước nhà hội sở có miếu Ngũ hành và miếu thờ ông Hổ, một hình tượng thường thấy trong các kiến trúc đình ở Nam Bộ. Các công trình được bố trí hài hòa với không gian xung quanh gồm có 4 sân: sân trước, sân sau, sân phải, sân trái, với những cây cổ thụ mấy trăm năm tuổi, bốn mùa rợp bóng.
Trong các công trình, chánh điện là nơi quan trọng nhất, tập trung những trang trí đặc sắc nhất của ngôi đình. Các đầu kèo, trình đều được chạm khắc đầu rồng và cành mai. Chính điện có 3 bao lam được phân bố ở giữa và hai bên có từ lúc khởi thủy của ngôi đình đến bây giờ. Bao lam giữa được chạm trổ theo đề tài lân – ly – quy – phụng. Hai bao lam bên trái và bên phải được chạm trổ theo đề tài mẫu đơn – trĩ.
Cho đến ngày nay, đình vẫn còn giữ được 37 hiện vật quý. Các tác phẩm chạm khắc nghệ thuật như bao lam, hoành phi, câu đối, trang thờ đều giữ được đường nét, màu sắc sơn son thiếp vàng của hiện vật cổ. Các cao niên trong ban quản lý di tích cho biết, có thời gian nhiều hiện vật bị thất thoát, sau này được sắm sửa lại. Để đình vững chãi đến bây giờ, mấy chục năm qua, những người trông coi đình cùng bà con chung sức, thay từng viên ngói âm dương, từng thanh xà nhà…
Giá trị văn hóa
Năm 1998, đình Thông Tây Hội chính thức được công nhận là Di tích Kiến trúc nghệ thuật, văn hóa lịch sử Quốc gia. Tiếp nối truyền thống cha ông, thời gian qua Ban Quản lý đình Thông Tây Hội mặc dù còn nhiều khó khăn nhưng vẫn duy trì việc gìn giữ, bảo vệ di tích và thực hiện các nghi thức tín ngưỡng. Trong đó, việc thờ cúng diễn ra quanh năm, lễ vật đơn giản là sản vật địa phương, mùa nào thức ấy nhưng ăm ắp lòng thành, chất phác người Nam Bộ. Còn lễ hội quan trọng nhất là lễ vía Bà Chúa Xứ vào tháng tư âm lịch và lễ Kỳ Yên diễn ra vào rằm tháng tám âm lịch hàng năm.
Ngoài người dân địa phương đến cúng kính, vẻ đẹp cổ xưa của ngôi đình còn thu hút du khách xa gần đến tham quan, nghiên cứu. Đây cũng là nơi thường diễn ra các hoạt động giáo dục, tìm hiểu lịch sử vùng đất cho thế hệ trẻ, đặc biệt là học sinh trong thành phố.
- Trích theo cuốn “Di tích lịch sử văn hóa ở Thành phố Hồ Chí Minh”