Vũ Phạm Hàm (武范諴, 1864 – 1906) là Nhất giáp Tam nguyên trong ba kỳ thi triều nhà Nguyễn (lúc ông 29 tuổi). Trong lịch sử Việt Nam chỉ có vài Tam nguyên là Đệ nhất giáp, gồm có Phạm Đôn Lễ, Vũ Dương, Lê Quý Đôn (triều Lê) và ông.
Khu lăng mộ
- Nằm giữa cánh đồng bao la của làng Đôn Thư, xã Kim Thư, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông (nay là Hà Nội)
- Bố cục hình tròn
- Phía trước mộ đắp bình phong cuốn thư với lỗ tròn giữa, nhìn ra đường cái quan theo đúng phong thủy
- 2 bên bình phong có ngách vào xây cao 3 bậc, vừa tránh được trâu bò vào phá hoại, vừa tạo sự kín đáo, mà lại khéo léo tạo tư thế khom người kính cẩn cho những ai vào thăm viếng
- Bên trong là mộ và bia cụ thẳng đường thần đạo, xây bệ để đồ lễ ở chính giữa, xung quanh là bia mộ phu nhân và con cháu trong dòng họ.
- Điểm đặc biệt nhất là lăng mộ không trồng cây to tránh rễ cây xâm phạm, chỉ trồng một loài cây leo bám vào tường, là cây vẩy ốc, nhưng xanh tốt lạ thường, cây vẩy ốc ra hoa kết trái to chưa từng thấy, thể hiện linh khí đặc biệt quanh khu mộ.
Đất Đôn Thư
Làng Đôn Thư phía bắc giáp hai làng Kim Châu và Kim Thành, nam giáp làng Phương Trung (làng Chuông), phía tây giáp sông Đáy, phía đông là cánh đồng trồng lúa và màu có tuyến đường quốc lộ 21B chạy ngang qua. Trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, các làng này đều gọi là xã. Xã Đôn Thư cùng ba xã tiếp giáp hợp với các xã Kim Bài, Cát Động và Kim Lâm thành Tổng Phương Trung. Vậy địa chỉ hành chính đầy đủ khi xưa là “Xã Đôn Thư, Tổng Phương Trung, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông”. Nay Đôn Thư là một thôn, cùng với hai thôn Kim Châu và Kim Thành lập thành Xã Kim Thư, còn làng Phương Trung nay là Xã Phương Trung, được phân thành nhiều thôn.
Thôn Đôn Thư rất nhỏ so với Xã Phương Trung. Phương Trung xưa gọi là trang Thời Trung, cuối thế kỷ thứ VIII là nơi luyện quân của Phùng Hưng. Năm 791, Phùng Hưng giải phóng thành Tống Bình, được suy tôn Bố Cái Đại Vương. Nghe truyền sau chiến thắng, Bố cái Đại vương theo dòng sông Đáy, tới địa phận làng Hoạch An (phía Tây Bắc Kim Bài), rẽ theo dòng Khoang qua giữa hai làng Kim Châu và Kim Thành, đến Chằm Sen thì lên bờ khao quân ở căn cứ địa Phương Trung. Bên bờ Chằm Sen nay còn di chỉ gọi là Quán Vua. Một đoạn đường tiếp đó có tên là Đường Rước Vua. Sau này do dân số phát triển, đường Rước Vua tồn tại đến thời Cải cách ruộng đất (sau 1955) thì chuyển thành đất thổ cư. Nay gần chợ Chuông vẫn còn ngôi đền thờ Bố Cái Đại Vương (còn gọi là Quán Cáy, thuộc thôn Liên Tân ngày nay). Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng còn là một trong hai vị Thành Hoàng thờ ở Đình làng Phương Trung.
Khi trang Thời Trung còn là doanh trại quân đội thì các làng nhỏ ở phía bắc đã hình thành các nhóm cư dân, tiền thân của các làng Đôn Thư, Kim Châu, Kim Thành, Kim Bài, Cát Động, Kim Lâm, v.v… là nơi cư trú của các bậc sĩ quan và công chức từ thành Tống Bình về đây công cán. Ta còn biết rằng trong vùng này, ngoài các làng nêu trên, nhiều làng khác ngoài tên chính ra còn mang tên nôm: nào là Kẻ Chuông, Kẻ Vác, Kẻ Sào, Kẻ Vạc… Đất Đôn Thư các xóm cổ có tên chữ rất văn vẻ: xóm Cổ Thư, xóm Trung Hòa, lại có những tên đất như Ao Quan, Gò Nghè, Lăng xứ, Thượng Chòi, Hạ Chòi… Tất cả những điều đó cho thấy xưa kia đây là nơi cư ngụ của giới quan lại, và địa danh Đôn Thư chắc chắn là có từ xa xưa. Còn người dân địa phương phát triển để có thể hình thành làng Đôn Thư có vị thế một đơn vị hành chính độc lập thì có lẽ mới chỉ ở thời Hậu Lê mà thôi.
Danh nhân Đôn Thư
Đầu tiên phải kể là cụ Vũ Công Trấn (1685-1755). Năm 1724, cụ đỗ Đệ tam giáp Tiến sĩ, năm 1728 đỗ Đông Các, đứng tên thứ hai. Thời Trịnh Giang cụ giữ chức Phó Đô Ngự sử, bị Trịnh Giang cất chức vì quá thẳng thắn. Khi Trịnh Doanh lên thay anh làm Chúa lại phục chức cho cụ, vì thế cụ càng nổi tiếng trung trực. Sau cụ còn được thăng Binh bộ Tả Thị lang, Bồi Tụng (Phó Tể Tướng). Khi về hưu cụ được ban tước Đông Các Đại học sĩ. Cụ qua đời, mộ táng ở Đôn Thư. Vùng đất táng mộ cụ gọi là “Xứ Lăng”, thửa ao trước nhà cụ được gọi là “Ao Nghè”. Trên đất nhà ở cũ của cụ, dân làng đã xây bệ thờ cụ lộ thiên, vẫn chăm nom gìn giữ và thờ cúng cụ thường niên.
Tiếp đến là cụ Tế Tửu Phạm Vũ Phác (tức Phạm Vũ Quyền) và cụ Thám Hoa Vũ Phạm Hàm, đều là người họ Phạm Vũ.
Đôn Thư ngày nay
Đôn Thư ít ruộng, có nghề làm nón. Gần đây nhiều người đã chuyển làm dịch vụ, kinh doanh, kinh tế có khá hơn, song đa số các gia đình vẫn theo nghề làm nón, làm ruộng, làm giáo viên, thu nhập kinh tế gia đình còn ở mức rất thấp. Các người rời quê ra làm ăn ở thành phố đời sống có khá hơn, song cho tới nay cũng chưa có ai được tiếng là giàu có.
Về dòng họ Phạm Vũ – Vũ Phạm Đôn Thư
Văn bản cổ nhất được biết là ở sách phả của Cụ Phạm Phúc Cơ (đỗ Tứ trường năm Giáp Tý, 1624) thuộc đời thứ 7 Chi Giáp Nhất họ Phạm xã Đông Ngạc. Sách chép rằng: “Ngã hệ xuất Ái Châu, tính tòng Phạm phái, huynh đệ tam nhân, các cư nhất phương, nhất cư Đôn Thư, Nhất cư Bát Tràng, nhất cư Đông Ngạc xã” – có nghĩa là: “dòng dõi nhà ta từ Ái Châu mà ra, họ theo phái Phạm, có ba anh em, mỗi người ở một nơi, một ở Đôn Thư, một ở Bát Tràng, một ở xã Đông Ngạc”.
Sách phả nói trên được tìm thấy ở Viện Hán Nôm năm 1994. Sau hơn năm năm cùng nhau nghiên cứu, đến năm 2000 thì hai dòng họ Phạm, một ở Đông Ngạc (dòng họ Phạm Gia, Phạm Quang) một ở Phương Trung-Đôn Thư mới chính thức xác nhận là hai dòng họ có thủy tổ là hai anh em một nhà (còn ở Bát Tràng thì có hai dòng họ Phạm hiện nay còn đang phải tìm hiểu để làm rõ thêm về mối quan hệ).
Theo tộc phả họ Phạm Đông Ngạc thì Thủy Tổ Phạm Húng về lập nghiệp ở Đông Ngạc (làng Vẽ) hồi cuối thế kỷ thứ 14. Suy ra, cụ Thủy Tổ về định cư ở trang Thời Trung cũng là vào thời gian này, đó chính là Tổ Tiên Công của dòng họ Phạm Tam Chi xã Phương Trung ngày nay.
Đến đời thứ 7 ở chi Bính họ Phạm Phương Trung có cụ Phạm Phúc Hiền chuyên buôn bán vàng bạc, có tiếng là giàu có, người đương thời gọi cụ là “Ông Kim hoàn Ngân hoàn”. Một đêm nhà cụ Trực Hiền bị toán cướp ở ngoài đến cướp phá, gia sản khánh kiệt, cụ về sống ở đất Đôn Thư. Cụ cùng cụ bà họ Nguyễn sau khi qua đời, mộ đều táng ở Xứ Lăng làng Đôn Thư.
Cụ Phúc Hiền có 7 con trai, song không rõ bao nhiêu con gái. Cụ gả con gái là Diệu Thành (tên hiệu) cho Triều Ba Hầu Vũ Cương Chính người làng Đôn Thư. Bà Diệu Thành đưa em là Phạm Phúc Trạch (con trai thứ 5 của cụ Trực Hiền) về nuôi ăn học. Sau vì con trai của chị mất sớm nên cụ Phúc Trạch đã cùng con là Phúc Quý đổi sang họ Vũ để đảm trách việc phụng tự gia đình anh rể.
Gia đình anh rể mang tiếng “nhà quan” song gia tư cũng chỉ bình thường. Cha con cụ Phúc Trạch với thân phận ngụ cư nên đời sống khá khó khăn vất vả. Khi hai con trai cụ Phúc Quý trưởng thành đều đã tòng quân, mà trong quân ngũ hai anh em đều tiến bộ. Anh là Vũ Công Liêm được phong Phấn lực Tướng quân Bá hộ trật, em là Vũ Trọng Đĩnh làm Chánh Đội trưởng. Rồi sau hai anh em lập gia đình, mỗi người lại sinh được 4 con trai. Ở thế hệ 8 anh em trai này, có cụ Vũ Tiến là con cụ Trọng Đĩnh, đi thi đỗ Tú Tài.
Từ sau thời gian này, người trong đại gia đình nhận ra rằng gia tộc mình đã đến thời phát, trước là phát võ, sau phát văn. Đinh số phát triển nay đã hình thành “Song Chi – Bát Hệ”, và đã có người Khai Khoa. Các gia đình mới bảo nhau khôi phục tính danh họ Phạm đặt kèm với chữ Vũ, hình thành họ Phạm Vũ, đồng thời suy tôn cụ Phạm Trực Hiền làm Tiên Tổ, kể là Đệ Nhất Thế Tổ, còn Khởi Tổ Vũ Phúc Trạch thì lui xuống một bậc làm Đệ Nhị Thế Tổ.
Như vậy, dòng họ Phạm Vũ ở Đôn Thư đã có 400 năm lịch sử và có đến thế hệ thứ 15 (tính từ cụ Trực Hiền).
Danh nhân Nho học họ Phạm Đôn Thư
Thời gian tiếp sau đó vào cuối thời Lê Trịnh sang Triều đại Tây Sơn, đất nước ta nội chiến và cuộc chiến chống ngoại xâm lại diễn biến dồn dập và khốc liệt hơn, Triều đình không mở được khoa thi nào. Sau khi nhà Nguyễn thống nhất được đất nước, song cũng phải đến năm Gia Long thứ 6 (1807), khoa thi Hương đầu tiên sau một thời gian gián đoạn mới lại được tổ chức. Khoa thi đó ở Đôn Thư có hai chú cháu cùng đi thi là cụ Phạm Đình Dư (đời thứ 6) và cụ Phạm Vũ Quyền (đời thứ 7), cả hai cụ đều thi đỗ. Cụ Phạm Vũ Quyền khi dự thi tuổi còn thấp, còn chưa có tên trong sổ đinh, phải mượn tên của chú ruột là Phạm Vũ Phác. Thời Gia Long chỉ mở thi Hương, cho nên chiếu theo kết quả thi năm 1807, có hai thí sinh đỗ Hương Cống xuất sắc, được tuyển chọn phụ trách cơ quan Quốc Tử Giám, đó là cụ Lê Văn Luyện người Thanh Hóa được phong Tế Tửu, còn cụ Phạm Vũ Phác (tức Quyền) được phong Tư Nghiệp. Trong nhà Thái Học ở Quốc Tử Giám Hà Nội mới dựng lại gần đây có bảng liệt kê danh sách các vị quan Tế Tửu và Tư Nghiệp, trên bảng chép tên cụ Phạm Vũ Phác, quan chức Tư Nghiệp, được bổ nhiệm năm 1807.
Tư nghiệp Phạm Vũ Phác sau được phong Tế Tửu. Tế tửu Phạm Vũ Phác (tức Phạm Vũ Quyền) khi về hưu trí, được vua ban áo bào, được cấp tiền làm nhà dưỡng lão và được mang đôi biển “Hồi tị – Túc Tĩnh” về quê sử dụng như ở nhiệm sở khi còn đương chức. Cụ nghỉ hưu ở quê, dân làng thường gọi cụ là “Cụ Tế”, năm cụ qua đời, nhà vua gửi viếng mười chữ:
“Sự nghiệp tam triều vọng,
Văn chương nhất quốc sư”
Thời Minh Mạng lên ngôi, mở Ân khoa năm Minh Mạng thứ 2 (1821), có cụ Phạm Vũ Cát dự thi, cũng vì chưa có tên trong số đinh nên phải mượn tên của một người làng. Cụ thi đỗ Hương Cống với tên mượn là Vũ Đăng Dương. Cụ làm quan trải ba triều vua Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức. Cụ ba lần nhậm chức Tri Huyện, Tri Phủ (Quỳnh Lưu, Hà Thanh và Thiên Phúc) Cụ tham gia Ban Giám Khảo ba khoa thi Hương (1825, 1840 và 1847) Năm Tự Đức thứ 2 cụ được cử tiếp Sứ thần Trung Hoa.
Cháu nội của cụ Vũ Đăng Dương là Vũ Đăng Ngạn, khi đăng thí, muốn đổi tên theo về họ Phạm Vũ, nhưng vì phải khai ba đời, nên cụ chỉ có thể đổi được thành Vũ Phạm Hàm mà thôi. Các con và cháu chắt cụ sau này giữ Họ như của cụ, hình thành Biệt Chi Vũ Phạm trong dòng họ Phạm Vũ Đôn Thư.
Vũ Phạm Hàm học chữ từ cụ thân sinh là cụ Đồ Vũ Phạm Dự và người chú trong họ là cụ Bang Phẩm. Lớn lên cụ theo học quan Ngự Sử nghỉ hưu là cụ Lê Văn Xuân, người làng Kim Lâm. Cụ học giỏi được thầy yêu quý, năm cụ Hàm 18 tuổi, cụ Ngự Sử gả con gái cho, tức là cụ bà Lê Thị Thọ. Sau cụ lại theo học quan đốc học Hà Nội là cụ Hoàng Giáp Vũ Nhự. Cụ đốc học yêu quý người học trò thông minh đã vui lòng nhận nuôi ăn và dạy học. Khi cụ Vũ Nhự chuyển vào Kinh đô, cụ lại nhờ bạn cũ là Tiến sĩ Phạm Hy Lương giúp dạy học cho Vũ Phạm Hàm. Năm 1884, 21 tuổi, Vũ Phạm Hàm đi thi Hương ở trường thi Thanh Hóa, đỗ đầu bảng. Năm sau được vào thi Hội, thi Đình, song do Pháp đánh kinh thành Huế năm 1885, kết quả khoa thi bị hủy bỏ. Theo ý nguyện của cha căn dặn, Vũ Phạm Hàm ở lại Huế, đến dạy học ở nhà Thượng thư Phạm Thận Duật, chờ đợi dự thi Đại khoa khi Triều đình mở lại.
Năm 1888, được tin thân phụ ốm nặng, ông Cử nhân Vũ Phạm Hàm phải xin nghỉ dạy học để về quê phụng dưỡng, nên lỡ một khoa thi Hội. Thời gian này ở quê cụ soạn Tộc phả, sáng lập Phả Đồ, nhờ đó họ Phạm Đôn Thư tiếp nối tục biên duy trì đến ngày nay. [Đó là phần chính của sách Mộng Hồ Gia Tập – Mộng Hồ là tên tự của Vũ Phạm Hàm. Xin xem thêm về “Mộng Hồ gia tập” có trong sách này – BBT]. Đến năm 1892, niên hiệu Thành Thái thứ tư, Khi đó Vũ Phạm Hàm 29 tuổi, đang làm giáo thụ Phủ Kiến Thụy, mới dự thi Hội và thi Đình tại kinh đô Huế. Ở khoa thi này, Vũ Phạm Hàm đỗ đầu cả thi Hội và thi Đình, sắc phong “Tam nguyên Nhất giáp Thám Hoa”. Cụ Vũ Phạm Hàm (1864-1906) là con cả cụ Vũ Phạm Dự, mà cụ Dự là con trai thứ hai của cụ Vũ Đăng Dương. Vì có con trai đỗ Đại Khoa nên cụ Dự được vua sắc phong Thị Giảng Học Sĩ Hàn Lâm Viện với tên là Vũ Phạm Dự. Sau khi vinh quy bái Tổ, cụ Vũ Phạm Hàm được bổ làm Đốc học Hà Nội, Ninh Bình, Phủ Lỗ và Hà Đông. Ở nơi làm việc nào cụ cũng mở lớp dạy học trò. Khi làm Đốc học ở Hà nội, cụ còn tham gia làm báo ở Đại Nam Đồng Văn nhật báo.
Cụ để lại rất nhiều thơ phú và câu đối, nhưng hầu hết là bằng chữ Hán. Tác phẩm chữ Nôm tuy cụ ít làm, song chỉ một bài “Hương Sơn phong cảnh” của cụ cũng đủ để giới phê bình văn học sau này xếp cụ vào hàng tác giả thơ nôm xuất sắc.
Một phần thơ văn của cụ được con trai thừa tự của cụ là Vũ Phạm Thảng sao chép và gửi lưu trữ ở Học viện Viễn đông Bác cổ thời gian những năm 1930 ~1940. Số sách này nay được chia về một số thư viện cấp Trung ương ở Hà Nội quản lý. Tác phẩm của Thám hoa Vũ Phạm Hàm từng đăng trên nhiều sách báo trước và sau Cách mạng Tháng Tám; câu đối cụ làm còn được khắc ở nhiều nơi. Song đáng tiếc là bản gốc những tác phẩm khá phong phú của Thám Hàm được lưu giữ ở Thư viện sách gia đình cụ Vũ Phạm Thảng, đã bị thất tán trong những biến động xã hội sau này.
Gần đây, với nhiệt tình tự nguyện của nhiều nhà nghiên cứu về sử học và văn học sử, nhiều tác phẩm có giá trị của cụ đã được phát hiện, sưu tầm và dịch ra quốc văn. Nghiên cứu về các công trình của Thám Hoa Vũ Phạm Hàm, sẽ giúp chúng ta hiểu được tâm lý, phong cách, trách nhiệm xã hội của lớp nhà nho yêu nước từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, cũng là một việc làm có ích đóng góp vào việc xây dựng một nền văn hóa dân tộc phong phú và đa dạng.
Hy vọng rằng bài viết này giới thiệu về quê hương cùng dòng họ của Thám hoa Vũ Phạm Hàm đáp ứng được phần nào yêu cầu tìm hiểu của các nhà nghiên cứu cũng như của quý vị độc giả.
Hà Nội, tháng 7 năm 2009
Phạm Vũ Úy