Lăng đá xóm Gạo (Hoài Đức, Hà Nội)

Lăng đá xóm Gạo (Hoài Đức, Hà Nội)

Thông tin cơ bản

Tên gọi và vị trí địa lý

Lăng đá xóm Gạo, hay còn gọi là Hiển Linh từ, tọa lạc tại thôn 1, xóm Gạo, xã Lại Yên, huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội.

Lịch sử và nhân vật

Lăng được xây dựng vào năm 1734, đây là nơi an nghỉ của Quận công Phạm Đôn Nghị, một vị quan dưới thời Lê trung hưng. Phạm Đôn Nghị sinh ra trong một gia đình có sáu anh chị em, là con thứ trong nhà. Ban đầu, ông mang họ Nguyễn, với cha là Nguyễn Quý Công và mẹ là Phạm Quý Thị. Cậu của ông, Phạm Mẫn Trực, là một võ tướng nổi danh, từng đảm nhiệm chức Tổng thái giám. Theo Phạm Công Gia Phổ bi ký năm 1734, ông người bản xã sinh năm Nhâm Tuất (1682), sinh ra liền đổi theo họ mẹ.

Con đường quan lộ của Phạm Đôn Nghị bắt đầu khi ông 33 tuổi, khi được giao nhiệm vụ hầu Thái phi. Chỉ sau đó bốn năm, ở tuổi 37, ông đã được thăng chức Hữu đề. Một năm sau, ở tuổi 38, ông tiếp tục được bổ nhiệm làm Tả thiếu giám. Dù chỉ giữ chức vụ này chưa đầy một năm, ông đã nhanh chóng được thăng chức Tri lệnh sử nhất phiên. Tiếp tục với đà thăng tiến, ông được bổ nhiệm làm Thị nội giám và được phong tước hầu. Khi bước vào tuổi 41, ông giữ chức Tri lệnh sử và kiêm thêm nhiệm vụ Thị hầu hậu nhất, chuyên trách các đội thuyền. Sau đó, ông liên tiếp thăng chức, lần lượt là Đô thái giám, Tổng thái giám và Thiêm tri thị nội Thư tả hình phiên. Ở tuổi 47, Phạm Đôn Nghị được vua phong tước Quận công và giao trọng trách đốc lĩnh các đạo Hải Dương, Kinh Bắc, cùng việc Chưởng đốc xứ Sơn Tây. Năm 49 tuổi, ông lại được thăng làm Đô đốc thiêm sự, tiếp đó là Đô hiệu điểm và Thiếu bảo. Khi 51 tuổi, ông được bổ nhiệm làm Tri thị nội Thư tả Hình phiên, kiêm quyền Phó đề lĩnh tứ thành quân vụ sự và đồng thời quản lý các đạo Đông Bắc và An Sơn. Một năm sau, ông được thăng chức Thiếu phó và được giao nhiệm vụ trấn thủ xứ Sơn Tây.

Kiến trúc và cảnh quan

Lăng mộ Phạm Đôn Nghị, hay còn gọi là “Hiển linh từ”, được xây dựng trên diện tích khoảng 820m² và có kiến trúc tương tự như lăng mộ của Phạm Mẫn Trực. Toàn bộ khu lăng được bao quanh bởi một bức tường kiên cố, tạo thành một không gian thiêng liêng và trang nghiêm. Cổng chính của lăng mộ được thiết kế với hai cột trụ vuông, mỗi cột cao 2,1m và có cạnh dài 0,26m, phần trên của cột có hai lỗ mộng. Dưới chân cột là hai phiến đá xanh hình chữ nhật nối liền hai trụ cột, tạo nên một cổng vào vững chãi. Dẫn vào trong là trục “linh đạo” dài 23,5m và rộng 1,96m, được đổ bê tông và hai bên đường là vườn cây trồng cau và cây ăn quả, mang lại không gian xanh mát và thanh tịnh.

Hai cổng phụ, một bên đã bị hỏng và được thay thế bằng cổng mới có thiết kế giống cổng gốc, làm từ đá ong và kết dính bằng vật liệu hiện đại. Cổng bên phải vẫn giữ nguyên như xưa, với cột đá xanh và mái đá ong, và trên trán cổng khắc dòng chữ “Hiển linh môn”. Khi bước qua cổng, du khách sẽ tiến vào sân nhà Tiền tế, với diện tích rộng 4,91m x 11,4m, được lát gạch Bát Tràng. Bao quanh sân là hàng gạch xây cao có chức năng làm vỉa và trụ nhỏ ở các góc. Cuối sân là ngôi nhà ba gian hai chái, được xây lại trên nền cũ của nhà Tiền tế trước đây. Tòa nhà Tiền tế có bốn hàng cột lớn, mái được đỡ bởi bộ vì kèo kiên cố. Nền nhà lát gạch, xung quanh là vỉa đá xanh, tạo nên một không gian trang nghiêm và cổ kính.

Từ nhà Tiền tế, du khách sẽ bước vào một khoảng sân hẹp được lát đá xanh, và ở hai bên có hai bể nước hình chữ nhật vát ô van ở hai đầu, được tạo ra từ các phiến đá nguyên khối. Trước cổng lăng là hai con chó đá được chạm khắc tinh xảo theo phong cách tả thực của thời Lê Mạt, tạo điểm nhấn nghệ thuật cho lăng mộ.

Cổng vào khu thờ tự được xây dựng bằng các phiến đá lắp ráp, mái cổng mang hình dáng mái đình, mái chùa với các bờ nóc, bờ dải được tỉ mỉ chạm khắc từ đá ong. Trên trán cổng có phiến đá lớn khắc dòng chữ “Hiển linh từ”, cùng với các hoa văn trang trí đơn giản nhưng rất đẹp, tạo nên vẻ thanh thoát và trang trọng. Bước qua cổng là khu thờ tự, nơi được bố trí các công trình thờ cúng chính.

Tiến vào khu thờ, du khách sẽ bắt gặp hương án được làm từ tấm đá nguyên khối, có hình vuông và trang trí các hoa văn uốn lượn, như vân mây, sóng nước, và rồng cuốn thủy chầu chữ thọ. Tòa thờ, lớn nhất trong khu lăng, được thiết kế theo dạng long đình, với mái cong, hai đầu đao tạo hình rồng ngoảnh đầu ra hai hướng và đuôi hướng vào nhau. Tòa thờ được lắp ghép từ ba tấm đá xanh liền khối, xung quanh giật cấp để tạo các ô trống không trang trí. Phía tường hồi bên trái khắc bài văn cho biết vào năm Cảnh Hưng 15 (1754) xây dựng bổ sung, đối diện lại ở hồi bên phải khắc bài thơ “Ngự long bút thi tự” thể thất ngôn bát cú. Tường hậu trổ một vòng tròn nhỏ làm cửa sổ nhìn sang phần mộ như chỗ đi lại của linh hồn, hai bên có đôi lân múa giữa những sóng nước dưới đám mây ở trên gợi ra một thế giới chỉnh thể. Từ cung thờ này kéo sang hai bên là tường ngăn với nửa sau đặt phần mộ. Nấm mồ sau phẳng trên đặt khối đá to có chữ “Tướng Công mộ”. Giữa tường hậu là bức hình phong chạm đôi nghê chầu mặt trời.

Tiếp theo trục ngang là các tượng ngựa và quan giám mã, được chạm khắc tỉ mỉ và mang phong cách tả thực. Các tượng này được tạo hình sống động, mang đậm tính biểu tượng với nét chạm mềm mại nhưng cũng thể hiện được sự mạnh mẽ của các nhân vật. Bên cạnh đó, hai án thờ được làm từ khối đá nguyên tấm, được trang trí các hoa văn kỷ hà và hình ô trám lồng, chân án kiểu quỳ dạ cá. Hai bên án thờ là hai nhà bia được xây theo kiểu long đình bốn mái, đối diện nhau và bờ nóc song song với trục “linh đạo”. Trên đốc mái của hai nhà bia khắc chữ “Vạn”, biểu tượng của nhà Phật. Các cửa của nhà bia được thiết kế theo kiểu cửa võng, với nét chạm khắc khỏe khoắn và chắc chắn, tạo nên sự hài hòa trong thiết kế. Trên hai cột chính của nhà bia có đôi câu đối, và các bức phù điêu mang phong cách nghệ thuật thế kỷ XVIII. Toàn bộ khu thờ tự được lát đá xanh, với các tấm đá được xếp theo quy tắc nhất định. Các tấm đá ở hai bên được xếp theo chiều dọc, còn các tấm đá ở giữa xếp theo chiều ngang. Điều này không chỉ có ý nghĩa thẩm mỹ mà còn mang ý nghĩa tâm linh sâu sắc, vì đá từ xưa đã được coi là vật liệu thiêng liêng, chứa đựng linh khí.

Phần mộ của Quận công Phạm Đôn Nghị nằm ở trung tâm khu lăng, được đặt trên một phiến đá lớn hình chữ nhật, phần trên cong hình lợi chậu. Trên mặt mộ khắc dòng chữ “Tướng công mộ”. Xung quanh mộ là khuôn viên cây xanh, bao gồm các cây ăn quả và hoa, tạo nên một không gian thoáng đãng và yên bình. Tường bao quanh khu lăng được làm từ đá ong, cao và vững chãi, bảo vệ sự tôn nghiêm cho nơi an nghỉ của Quận công. Hằng năm, vào ngày 30 tháng 5 âm lịch, hậu duệ và nhân dân trong làng sẽ tổ chức lễ tưởng niệm ông.

Hiện vật

  • Bia Phạm công gia phả bi ký ghi lại gia phả, tiểu sử của Phạm Đôn Nghị và sự tích các đời trong dòng họ Phạm dựng năm Giáp Dần, niên hiệu Long Đức thứ 3 (1734) ở Nhà Bia bên phải.
  • Bia Hiển Linh từ hậu Trần bi ký/ Nhất xã thọ hậu phật sự liệt dựng năm Long Đức 3 (1734) Nhà Bia bên trái

Xếp hạng

Bộ Văn hóa và Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) hai lần xếp hạng lăng đá xóm Gạo là Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Quốc gia lần lượt vào ngày ngày 13/1/1964 và ngày 17/9/1993.

Tài liệu tham khảo 

  1. Sở Văn hóa Thông tin Hà Tây (1999), Di tích Hà Tây.
  2. Tâm Phúc, “Nơi an nghỉ của vị Tổng thái giám dưới thời vua Lê chúa Trịnh”, báo Lao Động, ngày 03/11/2024.
Chấm điểm
Chia sẻ
Checkin

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *


Banner app chỐn thiÊng 3 (60x90)