Tên gọi và vị trí địa lý
Miếu Thượng Thanh nằm trên một khu đất rộng lớn, ngay sát bờ hồ Thanh Đàm, gần con đường trục liên xã. Vị trí này tạo thành một quần thể di tích nổi bật của làng Thượng Thanh, thuộc xã Thanh Cao, huyện Thanh Oai, thành phố Hà Nội. Với địa thế thuận lợi và không gian thoáng đãng, miếu không chỉ là nơi thờ tự mà còn là một điểm đến văn hóa, gắn liền với lịch sử và truyền thống của vùng đất này.
Lịch sử và nhân vật
Miếu Thượng Thanh được xây dựng để tưởng nhớ đến vị anh hùng Cai Công, một tướng lĩnh tài ba và dũng mãnh, người đã có công lớn trong cuộc khởi nghĩa chống lại ách đô hộ của nhà Đông Hán vào những năm 40. Cai Công cũng là cánh tay đắc lực dưới trướng của Hai Bà Trưng trong cuộc chiến giành lại độc lập đất nước. Cai Công, một vị tướng tài ba và dũng mãnh, đã được phong tước Tướng tiên phong trong cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng. Ông dẫn đầu đội quân 3 vạn người, trong đó có 500 kỵ binh, và dùng mưu trí giả làm phụ nữ để dễ dàng tiến quân. Ông chia quân thành hai hướng thủy bộ, nhanh chóng hành quân tới thành Tô Định, giáng cho quân giặc một thất bại nặng nề. Nhờ chiến thắng này, cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng đạt được thắng lợi vang dội, giải phóng 65 thành, và Bà Trưng Trắc lên ngôi vua. Bà Trưng Nhị được phong làm Bình Khôi công chúa. Cai Công được phong tước Khai quốc Đại nguyên soái, trở thành cánh tay phải giúp nhà vua củng cố chính quyền và xây dựng đất nước. Sau khi giành chiến thắng, Cai Công quay trở về quê hương Thượng Thanh. Nhân dân nơi đây đã tổ chức lễ đón ông long trọng, mong muốn dâng tặng lễ vật, trong đó có trâu bò để thể hiện lòng thành kính. Tuy nhiên, Cai Công đã ngăn cản và dạy rằng: “Quốc gia thịnh vượng là nhờ sức lao động của trâu bò, không thể tàn sát chúng được.” Người dân làng Thượng Thanh đã theo lời ông, làm cỗ chay dâng tặng, từ đó tục lệ làm cỗ chay được duy trì trong cộng đồng.
Ba năm sau, khi nhà Đông Hán gửi Mã Viện mang quân sang xâm lược nước ta, cuộc kháng chiến của Hai Bà Trưng vẫn tiếp tục. Dù các tướng lĩnh và nghĩa quân chiến đấu hết sức dũng cảm, nhưng do sự chênh lệch quá lớn về lực lượng, Cai Công được lệnh dẫn quân lên biên ải Lạng Sơn để chống giặc. Mặc dù chiến đấu kiên cường, ông và các nghĩa sĩ không thể cản được bước tiến của quân giặc, buộc phải rút về giữ Cẩm Khê. Cuối cùng, nghĩa quân tan vỡ và Hai Bà Trưng hy sinh trong trận chiến bi hùng. Dù vậy, Cai Công vẫn tiếp tục chiến đấu không biết mệt mỏi, mở một con đường máu, dẫn quân phá vòng vây và rút về Thượng Thanh để mưu sự nghiệp về sau. Nhưng khi trở về quê hương, ông đã qua đời, để lại sự tiếc thương vô hạn trong lòng dân làng. Để tưởng nhớ công lao to lớn của ông, nhân dân Thượng Thanh đã lập miếu thờ ngay bên bờ hồ Thanh Đàm, thờ phụng Cai Công từ đó đến nay, ghi dấu một anh hùng bất khuất trong lịch sử dân tộc.
Kiến trúc và cảnh quan
Miếu Thượng Thanh tọa lạc trên một khu đất rộng lớn, ven bờ hồ Thanh Đàm, là một phần quan trọng trong quần thể di tích lịch sử của làng Thượng Thanh. Cạnh miếu là đình Thượng Thanh và chùa Diên Phúc, tất cả tạo nên một không gian văn hóa đặc sắc và linh thiêng của vùng đất này. Miếu được xây theo hướng Tây, với mặt tiền hướng ra hồ, tạo ra một cảnh sắc thanh bình và tĩnh lặng. Bên trái miếu là một nhà giải vũ ba gian, nơi thường xuyên tổ chức các hoạt động văn hóa của cộng đồng.
Theo các tài liệu lịch sử và truyền thuyết địa phương, miếu đã có từ rất lâu, được xây dựng ngay sau khi Đại nguyên soái Cai Công qua đời. Trong ngọc phả ghi lại, miếu đã được tu sửa lần đầu tiên vào thời kỳ Sĩ Nhiếp. Mặc dù những tư liệu còn lại không đầy đủ, nhưng từ các dấu vết kiến trúc hiện tại, có thể xác nhận rằng miếu thờ Cai Công đã có từ rất lâu, và ban đầu chỉ là một công trình đơn giản, chủ yếu sử dụng các vật liệu tự nhiên như tranh tre. Sau nhiều lần trùng tu và mở rộng, miếu đã có diện mạo khang trang như hiện nay. Lần trùng tu lớn nhất diễn ra vào năm Khải Định tam niên (1918), từ đó miếu vẫn được duy trì và sửa chữa đều đặn. Cuối năm 2017, dải đất cạnh miếu cùng một phần đầm đã được san lấp làm đường, xây bình phong và bãi đỗ xe.
Kiến trúc của miếu hiện nay được xây theo kiểu chữ “Đinh”, mặt hướng ra hồ Thanh Đàm. Trong khuôn viên miếu, có một vườn cây cổ thụ, tôn thêm vẻ đẹp trang nghiêm và thanh tịnh cho khu di tích. Đại bái, nơi thờ phụng, có ba gian, bốn vì kèo chính, xây trên nền rộng 13m và dài 7m. Phía trước Đại bái là hai cột trụ biểu cao, có mặt cắt vuông, với phần dưới cột tạo hình thắt cổ bồng, biểu tượng cho sự vững vàng, kiên cố. Phía trên đầu các cột là những lồng đèn đắp tinh xảo, cùng với các hình tượng tứ linh và hổ phù. Trên đỉnh cột, đôi lân chầu nhau, là biểu tượng của sự bảo vệ và may mắn. Những câu đối được khắc chìm trên hai mặt cột, ngợi ca vẻ đẹp cũng như vị trí đắc địa của miếu Thượng Thanh.
Miếu được xây dựng trên nền cao, cao hơn mặt sân 1,2m, tạo cảm giác vững chãi và uy nghiêm. Bên trái miếu là ngôi nhà dải vũ ba gian, nơi thường tổ chức các nghi lễ văn hóa của làng. Phía bên phải là lối đi lát gạch nghiêng rộng 2m, nối liền miếu với con đường liên xã, thuận tiện cho người dân và du khách đến thăm. Không xa miếu là một am thờ nhỏ, cũng hướng ra hồ Thanh Đàm, nơi được cho là nơi thờ phụ mẫu của Cai Công. Người dân địa phương vẫn gọi am này là “đền Ngoài”, một địa điểm linh thiêng, gắn liền với sự tôn kính và tưởng nhớ của người dân đối với vị anh hùng Cai Công.
Hiện vật
- Miếu còn lưu giữ 12 sắc phong từ thời Lê đến thời Nguyễn, trong đó sắc sớm nhất mang niên đại Vĩnh Thịnh lục niên (1710), muộn nhất là Khải Định cửu niên (1924).
- 02 cỗ kiệu bát cống sơn son thếp vàng được tạo tác ở thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XX.
- 01 bức hoành phi cuốn thư “Thần Châu hiển thánh” có diềm chạm lộng tứ linh và hổ phù, sơn thếp lộng lẫy, tạo tác năm 1938.
- 01 bức cửa võng gỗ chạm lộng “Cửu long tranh châu”, sơn son thếp vàng, phong cách điêu khắc đầu thế kỷ XX.
- 01 khám thờ cao 210cm, rộng 140cm, sâu 120cm, phủ sơn mài, diềm chạm nổi lưỡng long chầu nguyệt, cửa mở phía trước kiểu bức bàn.
- 01 hương án hình hộp cao 160cm, rộng 170cm, dày 85cm, chia nhiều tầng, nhiều ô trang trí chữ thọ, hổ phù, tứ linh, hoa lá, phong cách chạm nổi của thế kỷ XIX.
- 01 đôi cây quán tẩy với hình tượng phượng, long, sen, trúc; 01 đôi hạc gỗ cao 220cm có phong cách tạo tác thế kỷ XVIII và đứng trên đôi rùa đá.
- 01 cỗ ngai kiệu thế kỷ XVII.
- 04 mâm khảm trai đường kính 60cm; 02 đài nước khảm trai; 01 bộ bát bửu; 02 thanh kiếm; bộ tam sự, ngũ sự đồng và đồ tế tự khác.
Xếp hạng
Ngôi miếu Cai Công được xếp hạng Di tích lịch sử – văn hoá của tỉnh Hà Tây (cũ) tại quyết định số 88/QĐ-UB ngày 21/3/1989.
Tài liệu tham khảo
- Nguyễn Hoan, “Miếu Thượng Thanh – Nơi thờ Đại nguyên soái Cai Công thời Hai Bà Trưng”, Tạp chí Petro Times, ngày 26/5/2020.
- Miếu Thượng Thanh, Di tích lịch sử – văn hóa Hà Nội.