Hưng công thánh ân tự bi/Nhất cúng điền lập đoan ngôn

Hưng công thánh ân tự bi/Nhất cúng điền lập đoan ngôn

Thông tin cơ bản

Hưng công thánh ân tự bi/Nhất cúng điền lập đoan ngôn
興功聖 恩寺碑/ 一供田立端言
Bia chùa Đào Xuyên, xã Đa Tốn, huyện Gia Lâm, tp Hà Nội
Niên đại: Ngày lành, tháng 3 năm Ất Hợi – năm Đức Long thứ 7 (1635).
Người soạn: Tăng Trụ trì tự Huệ Trung.
Hoa văn: Rồng chầu nhật nguyệt, diềm dây leo hoa cúc.
Kích thước: 83 x 50cm
Vị trí: Đầu hồi bên phải Tam Bảo

Hưng công Thánh Ân tự bi

興功聖恩寺碑
興功聖恩寺碑– 並銘
嘗謂,寺乃福地也。
夫績德之基,善人所為也。是以杜尚書之建河橋,崔大夫之建渭橋,李相公之造普明鼎,裴承相之造瓊林。
佛是皆古人績德之基,歷觀前代厥事明徵。
眷惟,京北處,順安府,嘉林縣,桃川社,古跡名藍實乃勝地。東則有帶溪之水[?] 拱於前;西則有龍隱之江繞旋於後;北則有廟堂古跡朝之於左;南則有[?] 里名鄉應之於右。
攬其形勢如斯,的是京北勝地,民祈國禱稔有英靈[3]。因[?] 弊遺址,僅存見者不能無憾焉,廢而能舉,蠱而服振。必待大力而量,大手[?] 為能之善乎?竊惟,山南道,常信府,上福縣,贑川社,國朝正府內宮黃氏,以椒房之親,輔同開創之業。功昭于時,名冠郡[4?]
禪宗發菩提心,施無量德,資家財先為之倡而興造。當此之時,王公士庶,及[善?] 信人皆樂[贇?] 為之德。乃於壬申年,二月不記日,當個月造成奉佛上殿,後堂,左右行郎,三關,並造聖相一座,及重修橋等。所雕梁巍嶪,畫棟崢嶸。其斯功斯德,是夫前世起不盛哉!
茲欲紀功于簡,曷若刻石為碑,後之見者,目斯寺而口斯碑,莫不美,觀以頌功德。
故銘于石以萬億載之不朽云。
銘曰:
粵安北地
有聖恩名
因培基址
跡有金形
歷世既久
棟宇就[傾?]
惟黃內府
好善 有誠
離樓[削墨?]
公輸[?]呈
規模壯觀
制度崢嶸
民祈國禱
顯有英靈
默扶國祚
福被群生
斯公斯德
刻石為銘
一興功會主,王府內宮嬪黃氏玉[壹?] 字明寶嚴德面容菩薩。
親男,後行中奇副將少傅[?] 郡公鄭[?]。
右行副將,少傅[華?] 郡公鄭[梣?]。
親女郡主鄭氏玉[潤?],郡主鄭氏玉[楨?]
一功德下洪府,嘉福縣,高陽社,阮氏玉俄,號法寶
德龍柒年乙亥參月穀日,住持僧字惠忠。
Phiên âm
Hưng công Thánh Ân tự bi
Hưng công Thánh Ân tự bi – tịnh minh
Thường vị, tự nãi phúc địa dã.
Phù tích đức chi cơ, thiện nhân sở vi dã. Thị dĩ Đỗ Thượng thư chi kiến hà kiều, Thôi Đại phu chi kiến [vị?] kiều, Lý tướng công chi tạo Phổ Minh đỉnh, Bùi Thừa tướng chi tạo Quỳnh Lâm.
Phật thị giai cổ nhân tích đức chi cơ, lịch quan tiền đại quyết sự minh trưng.
Quyến duy, Kinh Bắc xứ, Thuận An phủ, Gia Lâm huyện, Đào Xuyên xã, cổ tích danh lam thực nãi thắng địa. Đông tắc hữu đới khê chi thủy [?] củng ư tiền; Tây tắc hữu long ẩn chi giang nhiễu tuyền ư hậu; Bắc tắc hữu miếu đường cổ tích triều chi ư tả; Nam tắc hữu [?] lý danh hương ứng chi ư hữu.
Lãm kỳ hình thế như tư, đích thị Kinh Bắc thắng địa, dân kỳ quốc đảo nẫm hữu anh linh [3]. Nhân [?] tệ di chỉ, cận tồn kiến giả bất năng vô hám yên, phế nhi năng cử, cổ nhi phục chấn. Tất đãi đại lực nhi lượng, đại thủ [?] vi năng chi thiện hồ? Thiết duy, Sơn Nam đạo, Thường Tín phủ, Thượng Phúc huyện, Cám/ Cống Xuyên xã, quốc triều chính phủ nội cung Hoàng thị, dĩ tiêu phòng chi thân, phụ đồng khai sáng chi nghiệp. công chiêu vu thời, danh quán quận [4?]
Thiền tông phát bồ đề tâm, thí vô lượng đức, tư gia tài tiên vi chi xướng nhi hưng tạo. Đương thử chi thời, vương công sỹ thứ, cập [thiện?] tín nhân giai lạc [uân?] vi chi đức. Nãi ư Nhâm Thân niên, nhị nguyệt bất ký nhật, đương cá nguyệt tạo thành phụng Phật thượng điện, hậu đường, tả hữu hành lang, tam quan, tịnh tạo thánh tướng nhất tòa, cập trùng tu kiều đẳng. Sở điêu lương nguy nghiệp, họa đống tranh vanh. Kỳ tư công tư đức, thị phù tiền thế khởi bất thịnh tai!
Tư dục kỷ công vu giản, hạt nhược khắc thạch vi bi, hậu chi kiến giả, mục tư tự nhi khẩu tư bi, mạc bất mĩ, quan dĩ tụng công đức.
Cố minh vu thạch dĩ vạn ức tải chi bất hủ vân.
Minh viết:
Việt An Bắc địa
Hữu Thánh Ân danh
Nhân bồi cơ chỉ
Tích hữu kim hình
Lịch thế ký cửu
Đống vũ tựu [khuynh?]
duy hoàng nội phủ
Háo thiện hữu thành
Ly lâu tước mặc
Công du [?] trình
Quy mô tráng quán
Chế độ tranh vanh
Dân kỳ quốc đảo
Hiển hữu anh linh
Mặc phù quốc tộ
Phúc bị quần sinh
Tư công tư đức
Khắc thạch vi minh
Nhất hưng công

Nhất hưng công hội chủ, Vương phủ nội cung tần Hoàng Thị Ngọc [Nhất?] tự Minh Bảo Nghiêm Đức Diện Dung Bồ tát.
Thân nam, hậu hàng trung kỳ Phó tướng Thiếu phó [?] Quận công Trịnh [?].
Hữu hàng Phó tướng, Thiếu phó [Hoa?] quận công Trịnh [Sầm?].
Thân nữ Quận chúa Trịnh Thị Ngọc [Nhuận?], Quận chúa Trịnh Thị Ngọc [Trinh?].
Nhất công đức Hạ Hồng phủ, Gia Phúc huyện, Cao Dương xã, Nguyễn Thị Ngọc Nga, hiệu Pháp Bảo
Đức Long thất niên Ất Hợi tam nguyệt cốc nhật, Trụ trì tăng tự Huệ Trung.
Dịch nghĩa
Bia ghi việc hưng công chùa Thánh Ân
Bia ghi việc hưng công chùa Thánh Ân – bài minh
Từng nói rằng, chùa ấy là nơi phúc địa vậy.
Nền móng tích đức, ấy là việc làm của người thiện. Chính vì vậy, mà Đỗ Thượng thư cho xây Hà kiều , Thôi Đại phu xây Vị kiều , Lý Tướng công đúc tạo đỉnh Phổ Minh, Bùi Thừa tướng tạo vườn Quýnh Lâm.
Chùa thờ Phật cũng đều là những gốc nền tích đức của người xưa, trải xem các triều đại xưa, những sự ấy minh chứng thực rõ ràng vậy.
Kính mến thay, xã Đào Xuyên, huyện Gia Lâm, phủ Thuận An, xứ Kinh Bắc, cổ tích danh làm thực là nơi thắng địa.
Phía Đông thời có giải nước vắt chầu về trước; Tây thời có dòng lòng long mạch quấn chảy đằng sau; Bắc có miếu đường cổ tích nhìn về bên trái; Nam có danh hương làng xóm ứng đối bên phải.
Ngắm xem hình tượng như thế, đích thị là thắng địa đất Kinh Bắc vậy. Dân cầu quốc đảo bấy lâu anh linh hiển ứng. Nhân vì [?] di chỉ hư hòng để lại, chỉ còn như thế, người trông thấy không thể không cảm thán cảnh ấy.
Hư phế mà lại có thể cất khởi, hoang tàn mà lại có thể gây dựng lại, ắt phải đợi bậc đại lực điều lượng, đại thủ [?] mới có thể làm việc đại thiện ấy chăng.
Trộm nghĩ, Quốc triều chính phủ nội cung họ Hoàng , xã Cống Xuyên, huyện Thượng Phúc, phủ Thường Tín, đạo Sơn Nam, bà dùng tình thân chốn tiêu phòng , trợ giúp sự nghiệp cùng khai sáng.
Công nghiệp ấy rực rỡ đương thời, danh tiếng ấy đứng đầu quận [?].
Thiền tông phát tâm Bồ đề, bố thí vô lượng công đức, tài sản riêng của nhà, trước kêu gọi khởi xướng việc hưng tạo.
Đương thời ấy, vương công sỹ thứ, cho đến các thiện nam tín nữ thảy đầu hoan hỷ hưởng ứng công đức ấy. Đến tháng hai năm Nhâm Thân, trong tháng ấy tạo thành các hạng mục là thượng điện thờ Phật, hành lang hai bên nhà hậu đường, cổng tam quan, cùng tạo tượng Phật một tòa, và trùng tu cầu. Những trạm khắc nguy nga tráng lệ, những họa đống vòi vọi uy nghiêm. Những công ấy đức ấy, sánh với đời trước há chẳng thịnh đại lắm sao!
Nay muốn ghi chép công đức ấy vào sử sách, sao bằng được khắc vào đá thành bia, người đời sau có duyên gặp, mắt ngắm cảnh chùa, miệng đọc bi ký, không ai không cho là việc thiện mỹ, chiêm ngưỡn đây mà ca tụng công đức.
Bởi vậy, khắc vào đá để muôn vạn năm sau không phai mờ vậy.
Minh rằng:
Cõi Việt An đất Bắc
Danh lam Thánh Ân
Nhân bồi nền móng
Vết có kim hình
Trải đời vốn lâu
Chùa cột đến [nghiêng ngả?]
Hoàng triều nội phủ
Ưa thiện lòng thành
Ly Lâu [Tức Mặc?]
Công qua [?] trình
Quy mô tráng quán
Chế độ trang nghiêm
Dân cầu quốc đảo
Hiển hữu anh linh
Ngầm phù vận nước
Phúc trùm quần sinh
Công này đức này
Khắc đá tạc minh
Hội chủ hưng công, Vương phủ nội cung tần Hoàng Thị Ngọc Nhất, tự Minh Bảo Nghiêm Đức Diện Dung Bồ tát.
Thân nam , Hậu hàng trung kỳ Phó tướng Thiếu phó [?] quận công Trịnh [?].
Hữu hàng Phó tướng, Thiếu phó [Hoa?] Quận công Trịnh [Sầm?].
Thân nữ, quận chúa Trịnh Thị Ngọc [Nhuận?], quận chúa Trịnh Thị Ngọc [Trinh?].
Công đức, Nguyễn Thị Ngọc Nga, hiệu Pháp Bảo người xã Cao Dương, huyện Gia Phúc, phủ Hạ Hồng.

Nhất cúng điền lập đoan ngôn
一會主
王府內宮嬪黃氏玉壹,字明寶嚴德面容菩薩。[?] 有所買田[十?] 一畝,二高在京北處,順安府,嘉林縣道川社。
一所坐落在[排 棟?] 處,[?] 田四口半。
一所田一高七口坐在[?] 處。
一所田一高三口二分在同磊處。
一所[稅?] 田一高六尺在橋梅處。
一所一高四口在從[?] 處。
一所田一高八口在核甘處。
一所田一高一口在塘[芃?] 處。
一所田一高六口在[?] 處。
以上等項田供養聖恩寺,為三寶物,留付桃川社,均分各甲一任耕塚以為香油碗焦供養三寶億年事佛以永祭祀無虧。係本社人… 不捧端言,悖這約者,恭願
十方諸佛,三界萬靈,十八龍神,遮藍真宰,及本社當境城皇大王付下,誅之滅之散之永失人身也。無詞[?] 端。
德龍七年三月[?] 日奉立端言。
Phiên âm
Nhất hội chủ
Vương phủ nội cung tần Hoàng Thị Ngọc Nhất, tự Minh Bảo Nghiêm Đức Diện Dung Bồ tát. [?] hữu sở mãi điền [thập?] nhất mẫu, nhị cao tại Kinh Bắc xứ, Thuận An phủ, Gia Lâm huyện Đạo Xuyên xã.
Nhất sở tọa lạc tại [Bài Đống?] xứ, [?] điền tứ khẩu bán.
Nhất sở điền nhất cao thất khẩu tọa tại [?] xứ.
Nhất sở điền nhất cao tam khẩu nhị phân tại Đồng Lỗi xứ.
Nhất sở [thuế?] điền nhất cao lục xích tại Kiều Mai xứ.
Nhất sở nhất cao tứ khẩu tại Tòng [?] xứ.
Nhất sở điền nhất cao bát khẩu tại Cây Cam xứ.
Nhất sở điền nhất cao nhất khẩu tại Đường [Bông?] xứ.
Nhất sở điền nhất cao lục khẩu tại [?] xứ.
Dĩ thượng đẳng hạng điền cúng dưỡng Thánh Ân tự, vi Tam bảo vật, lưu phó Đào Xuyên xã, quân phân các giáp nhất nhậm canh trủng dĩ vi hương du oản tiêu cúng dưỡng Tam bảo ức nên sự Phật dĩ vĩnh tế tự vô khuy. Hệ bản xã nhân … bất phụng đoan ngôn, bội giá ước giả, cung nguyện
Thập phương chư Phật, tam giới vạn linh, thập bát long thần, Già lam chân tể, cập bản xã Đương cảnh thành hoàng đại vương phó hạ, tru chi, diệt chi, tán chi vĩnh thất nhân thân dã. Vô từ [?] đoan.
Đức Long thất niên tam nguyệt [?] nhật phụng lập đoan ngôn.
Dịch nghĩa
Hội chủ là Vương phủ nội cung tần Hoàng Thị Ngọc Nhất, tự Minh Bảo, tự Minh Bảo Nghiêm Đức Diện Dung Bồ tát.
[?] có ruộng mới mua tốn số ruộng [?] mẫu 2 sào tại xã Đào Xuyên huyện Gia Lâm phủ Thuận An xứ Kinh Bắc.
Một thửa tại xứ [Bài?] Đống 4 thước rưỡi.
Một thửa 1 sào 7 thước tại xứ Cây [?].
Một thửa 1 sào 4 thước tại xứ Tòng [?].
Một thửa 1 sào 8 thước tại xứ Cây Cam.
Một thửa 1 sào [?] thước tại xứ Đồng Bông.
Một thửa 1 sào 6 thước tại xứ [?].
Các thửa hạng thượng đẳng điền trên cúng dưỡng vào chùa Thánh Ân để làm tài sản của Tham bảo, giao cấp cho người trong xã Đào Xuyên chia đều cho các Giáp cùng đảm nhận cày cấy, thu hoa lợi dùng vào việc dầu đèn, oản chuối cúng dưỡng Tam bảo mãi mãi, mà thờ Phật cho việc tế tự không bị khiếm thiếu. Theo đó người trong xã riêng…
Như có người nào không tuân theo lời “đoan ngôn” mà trái ngược ước lệ này. Thì kính xin chư Phật mười phương, vạn linh trong tam giới, Thập bát long thần, Già lam chân tể, cho đến Thành hoàng ở đất này giáng xuống mà chu diệt hắn, tiêu trừ hắn, tán thất hắn, hủy hoại hắn mãi mất thân người vậy. Chẳng lời, nay lập đoan.

Chấm điểm
Chia sẻ

Hình ảnh văn bia

Nội dung chính

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *


Banner App ChỐn ThiÊng 3 (60x90)