Tóm tắt:
Trong ngôi chùa, hiện hữu của những tòa tháp vừa thiêng liêng vừa cổ kính, minh chứng cho các thế hệ Tổ sư, Tăng, Ni, Phật tử biểu tượng của pháp mạch trường tồn cùng thời gian. Công lao mà các sư Tăng, sư Ni đóng góp cho đạo pháp. Vườn tháp hiện hữu, tồn tại như khẳng định sự dõi theo của các thế hệ đi trước đối với những thế hệ Tăng, Ni, Phật tử đang tu thiền, tập đạo, là tấm gương để những thế hệ kế tiếp noi theo. Chính giá trị về quy mô, kiến trúc và tâm linh mà Vườn tháp đóng một vai trò quan trọng trong hệ thống di sản Phật giáo. Tại Báo Ân Trùng Nghiêm tự (chùa Keo), một ngôi cổ tự gắn với Phật giáo thủa mới du nhập, thì Vườn tháp là văn vật biểu hiện cho những thế hệ kế đăng, truyền thừa, gìn giữ pháp mạch.
Từ khóa: Chùa Keo Gia Lâm, Vườn tháp chùa Keo, Báo Ân Trùng Nghiêm tự
Giới thiệu chung
Theo truyền thuyết, ngôi chùa Keo gắn với sự tích Phật Mẫu Man Nương và Tứ Pháp ở vùng Luy Lâu, trải dài trong lịch sử hàng ngàn năm, đây cũng được xem là một Tổ đình lớn gắn với nhiều bậc Thiền sư, cổ đức đã qua lại, trụ trì, thuyết pháp, trấn tích trùng quang, xây dựng mở rộng chùa cảnh trong suốt chiều dài lịch sử cho tới ngày nay.
Tại chùa Keo, hiện nay còn 9 tháp mộ, trong đó 6 tháp cao 2 tầng cùng quay về phía Bắc, một tháp cao 2 tầng quay về phía Nam và một tháp 1 tầng quay về phía Đông, có thể do kỵ húy Tổ sư, Tăng, Ni nên chỉ có 1 tháp còn bài vị. Nhận định ban đầu, các tháp đa phần đã được trùng tu, tôn tạo lại với kiến trúc triều Nguyễn, được xác định đã được xây dựng cách đây hơn 100 năm.
Cấu tạo kiến trúc chung của tháp
Các tháp được xây bằng gạch đỏ, trát vữa vôi cát bên ngoài, bốn mặt đắp nổi hoa văn, họa tiết hoa lá cách điệu. Đều chung một mô hình cơ bản có đế Tu-di-tòa1 , với tứ giác cỡ nhỏ 2m, khám thờ một cửa, chia thành các kiểu một tầng hay hai tầng, chỏm hình mui luyện, chóp hình cam lồ là phổ biến, các tháp có phong cách thời Nguyễn, với đa phần (7/9) là tháp của Tăng (!).
Như thông lệ, các ngôi tháp chùa Keo có cấu trúc 3 phần: đế tháp, thân tháp và đỉnh tháp.
- Đế tháp Tu-di tòa gồm 3 lớp: lớp trên, lớp dưới, lớp giữa thắt lại. Phần chân và phần tiếp giáp với thân tháp xây bằng gạch và giật cấp 3 tầng. Phần lớp trên thân của đế tháp thu vào, với bốn mặt trổ các ô cửa đắp nổi hoa văn, họa tiết hoặc tứ linh, bên ngoài đắp viền xung quanh.
- Thân tháp gồm một hoặc hai tầng, tầng đầu tiên giáp với đế tháp, có trổ khung cửa để tạo khoảng trống thường là lòng am, nơi đặt bát hương, bài vị. Tầng hai tiếp giáp với đỉnh tháp cũng trổ các ô cửa đặc, lui vào chừng 10cm các ô cửa này để trống hoặc viết tên tháp bằng chữ Hán hoặc chữ Phạn.
- Đỉnh tháp có hai phần: phần dưới tiếp giáp với thân tháp có dạng tứ giác cụt, mui vẹm xung quanh, 4 góc mái có gắn rồng hoặc hoa lá cách điệu uốn cong. Bốn mặt đắp nổi hoa văn hoa lá cách điệu và mặt hổ phù. Trong văn hóa tâm linh Việt Nam, hổ phù (một loại bùa hình con hổ) là hình tượng xuất hiện trong trang trí kiến trúc ở nhiều đền, chùa cũng như các đồ thờ cúng. Trong quan niệm của Phật giáo, họa tiết hổ phù được coi như một sức mạnh siêu nhiên tiêu trừ ác độ, bảo vệ Phật pháp.
Phía trên phần tứ giác cụt xung quanh các mặt trên đỉnh tháp đắp giả ngói diềm mái gắn bệ búp sen đang nâng tịnh bình đắp, khảm gốm hoặc bình gốm hoa lam. Hình ảnh tịnh bình tượng trưng cho giới đức của người tu hành, ngũ giới bao gồm: không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu. Giữ được ngũ giới thì thân khẩu ý mới được trong sạch. Mà thân khẩu ý trong sạch rồi thì mới trở nên thanh tịnh.
Nhìn khái quát lại, loại tháp tu-di-tòa bằng gạch đều chung một mô hình cơ bản là: đế hình Tu-di-tòa tứ giác cỡ nhỏ 2m, khám thờ một cửa, chia thành các kiểu nhiều tầng, một tầng hay không có tầng, chỏm hình mui luyện, chóp hình nậm rượu là phổ biến.
Đại đa số là tháp có từ hai tầng trở xuống. Hầu hết các tháp còn lại có niên đại vào thế kỷ XX, nói chung đơn điệu, giản dị.
Giới thiệu câu đối trên từng tháp
Tháp số 1: Chưa rõ tên tháp
Nguyên văn chữ Hán:
仗此能仁慈父德
承斯度善大師恩。
Phiên âm:
Trượng thử năng nhân từ phụ đức
Thừa tư độ thiện đại sư ân
Dịch nghĩa:
Nương nhờ đức của Từ phụ năng nhân.
Kế nối ở đây cứu độ chúng thiện ân của thầy tổ.
(Từ phụ năng nhân: danh từ chỉ Đức Phật)
Tháp số 2: Vân Quang Bảo Tháp 雲光寶塔
Nguyên văn chữ Hán:
早證無生菓
頓超有漏因。
Phiên âm:
Tảo chứng vô sinh quả
Đốn siêu hữu lậu nhân
Dịch nghĩa:
Sớm chứng đắc quả vô sinh (quả vị vô sinh là quả vị Bồ tát từ địa thứ bảy trở lên, lìa tất cả tướng mà ngộ thực tướng);
Vụt siêu nhân hữu lậu (trong khoảnh khắc lập tức vượt ngoài nhân hữu lậu, tức nhân quả báo trong 3 đời)
Tháp số 3: Trùng Quang Tháp
Nguyên văn chữ Hán:
道[?f]2 顯金身
脫化留玉骨。
Phiên âm:
Đạo (giao) hiển kim thân
Thoát hóa lưu ngọc cốt.
Dịch nghĩa:
Đạo ? hiển thân vàng (kim thân tức thân Phật)
Thoát hóa để lại cốt ngọc (cốt ngọc chỉ xá lợi)
Bia tại Trùng Quang Tháp
Dịch nghĩa:
Cha là Nguyễn Thế Nho, tự là Thần Trung, hiệu là Anh Mẫn.
Nam mô (chú thích) Lâm Tế Thiên Tông Trúc Lâm, Tỷ Khâu Tuệ Hải, pháp hiệu Nhân Đồng Thiền sư toà,…
Mẹ họ Cao, hiệu Diệu Tràng.
Tháp số 4: (?) Đài Liên Tháp [?] 臺蓮塔
Nguyên văn chữ Hán:
功勛留舍利
德大現浮屠
Phiên âm:
Công huân lưu xá lợi
Đức đại hiển phù đồ
Dịch nghĩa:
Công huân lưu lại xá lợi
Đức lớn hiện bảo tháp (phù đồ là bảo tháp)
Đức lớn hiện bảo tháp (phù đồ là bảo tháp)
Tháp số 5: Liên Hoa Bảo Tháp 蓮花寶塔
Nguyên văn chữ Hán:
舍利留藏寶塔中
真身在蓮臺上。
Phiên âm:
Xá lợi lưu tàng bảo tháp trung
Chân thân tại liên đài thượng.
Dịch nghĩa:
Xá lợi để lại tàng trong bảo tháp
Chân thân (chân thân là pháp thân của Phật, thân biểu thị ra pháp, giáo pháp) ngự ở trên liên đài.
Tháp số 6: Không có tên tháp
Nguyên văn chữ Hán:
事止[関?] [?] 世
功名繼前人
Phiên âm:
Sự chỉ quan thế
Công danh kế tiền nhân
Dịch nghĩa:
Việc chỉ liên quan đến [?] đời.
Công danh nối tiền nhân.
Tháp số 7: Không có tên tháp
Tháp số 8: Không có tên tháp
Nguyên văn chữ Hán:
真身任去來
玉骨藏寶塔
Phiên âm:
Chân thân nhậm khứ lai
Ngọc cốt tàng bảo tháp
Dịch nghĩa:
Chân thân tùy đi đến
Ngọc cốt tàng trong bảo tháp
Tháp số 9: Chân Quảng Hoà Tháp 真廣和塔
Hiện nay, tại chùa Keo vẫn còn giữ lại được Bia “Trùng Nghiêm tự bi ký”, trên đó có khắc ghi pháp hiệu 8 vị Thiền sư
Bia Trùng Nghiêm tự bi ký
Bia Trùng Nghiêm tự bi ký – Chùa Keo,
Kim Sơn, Gia Lâm, Hà Nội (ảnh chụp thực địa, 25/12/2023)
Nguyên văn chữ Hán:
北寧省順成府嘉林縣金山總膠膝社尊官貴職[並?]與禪[?]忌諸位祖師
南無慧釋比丘歡默禪師座下九月十四日忌
南無[明?][?]清菩薩禪師座下十二月十七日忌守護阮[廋?]號妙心
南無法號人瞳禪座下三月初五日忌守護阮氏尼號妙[?]四月二十四日忌
南無寂憲澤日日菩薩禪師座下六月十二日忌阮貴氏號妙安
南無和尚如心結結禪師座下十二月二十七日忌正荐阮伯惠
南無照莊釋[堂堂?]禪師菩薩下座十月初五日忌阮氏奄號妙愛供錢陸拾叁貫
南無比丘字普榮釋謹謹禪師座下十一月十五日忌良夫阮求炳
南無沙[彌?]戒字清[?]禪師座下 重修碑位守護阮氏兄號貞
…阮貴公字旱[?]阮氏元供田弍高拾尺在同域處錢貳什貫
及良夫阮文穚阮氏號妙𢒂 阮氏第寄銀弍元田什
皇朝成泰拾壹年立碑記己亥吉日
Dịch
- Nam Mô3 Tuệ thích Tỷ khâu Hoan Mặc Thiền sư
- Nam Mô Thanh Bồ tát Thiền sư
- Nam Mô pháp hiệu Nhân Đồng Thiền sư
- Nam Mô Tịch (Hiến) Trạch Nhật Nhật Bồ tát Thiền sư
- Nam Mô Hòa Thượng Như Tâm Kết Kết Thiền sư
- Nam Mô Chiếu Trang Thích Đường (?) Thiền sư Bồ tát
- Nam Mô Tỷ Khâu – tự Phổ Vinh thích Cẩn Cẩn Thiền sư
- Nam Mô Sa Di Giới- tự Thanh (?) Thiền sư
Nội dung văn tự mặt A bia Trùng Nghiêm tự bi ký ghi ngày giỗ, của một số vị tổ sư (tám vị) và một số tôn quan quý chức, một số thủ hộ có cung tiến tiền và ruộng để gửi giỗ. Văn tự ghi thời gian lập bia là năm Thành Thái thứ mười một (1899), đầu thế kỷ XX.
Kết luận
- Nhận định chung
Bước đầu khảo tả tìm hiểu hệ thống tháp mộ chùa Keo tại Gia Lâm, Hà Nội chúng tôi nhận thấy: Với lịch sử ngôi chùa đã trải qua hàng ngàn năm, nhưng tới nay chỉ còn lưu giữ lại được 9 ngôi tháp với niên đại trên dưới 100 năm là một điều ngậm ngùi, cảm khái. Tuy nhiên điều đó cũng an ủi đôi phần, tạo cảm hứng, sự động viên để chúng ta tiếp tục đào sâu nghiên cứu hệ thống tháp mộ nói riêng, tổng thể di sản chùa Keo nói chung.
Việc đi sâu nghiên cứu, khảo tả, đối chiếu thông tin tư liệu hệ thống vườn tháp với các thông tin khác trong hệ di sản chùa Keo từng bước một sẽ góp phần làm sáng tỏ tiến trình lịch sử, truyền thừa Tổ sư, quá trình thăng trầm của chùa Keo nói riêng, Phật giáo Gia Lâm nói chung.
Trong thời gian gần đây, hệ thống kiến trúc, cảnh quan xây dựng tại chùa Keo nói chung, hệ thống Vườn tháp nói riêng được quan tâm, tu bổ phục dựng theo hướng duy tư bảo trì, khôi phục. Nhận thấy quá trình này tất yếu cần trang bị hệ thống tri thức đa ngành để những giá trị tiềm tàng ẩn khuất vốn có của chùa Keo được bảo tồn, phát huy tối đa, tránh nóng vội tạo sự khỏa lấp đổ vỡ không cần thiết.
Một số khuyến nghị
Qua việc biên khảo và đối chiếu, chúng tôi nhận thấy rằng
- Bia “Trùng Nghiêm tự bi ký” có niên hiệu Thành Thái, những tháp mộ tại Vườn tháp cũng có phong cách kiến trúc cuối Nguyễn, vậy những vị thiền sư, được ghi trên bia, có thể sẽ đồng thời được táng tại các tháp. Nhưng đó chỉ là nghi vấn, chúng tôi chưa đủ căn cứ để kết luận cụ thể.
- Trùng Quang Tháp, có bia đá gắn áp sát mặt sau đế tháp khắc tên Nhân Đồng Thiền sư và song thân, thiền sư này có tên trên bia “Trùng Nghiêm tự bi ký”. Do vậy có thể tạm thời xác định một mối liên hệ thấy giữa bia và vườn tháp có một mối liên hệ nhất định với nhau.
Trên đây là một số nghi khuyết để để thời gian tới tiếp tục khảo tả, nghiên cứu./.
Chú thích:
(1) Tu-di-tòa: Khi Phật giác ngộ dưới cội Bồ đề có vô số cảnh tượng trang nghiêm, như cây lá thành kim cương có muôn sắc báu, mặt đất biến thành kim cương, có vô số chư Phật và Bồ tát cùng đến hội. Đặc biệt nơi Phật ngồi hóa thành tòa hoa sen kim cương muôn báu. Phỏng theo sự tích này, người đời sau thường ví nơi định tọa của các vị Bồ tát, bậc tôn túc trưởng thượng có các tòa ngồi như, Nghê tòa, Liên tòa, Sư tử tòa, Tudi-tòa…v.v. Tòa-tu-di, lấy ý từ núi Tu-di, nơi trung tâm của pháp giới. Ngày nay khi xây dựng các tháp, tượng Phật.v.v, thường thiết lập các tòa ngồi, trong ấy Tu-di-tòa là một ví dụ.
(2) Chữ trên tháp bị mất chữ này.
(3) Nam mô: từ ghi âm chữ Phạn:(Namas). Nghĩa là quy mệnh lễ, rất mực thành tâm kính lễ.