Chùa Cổ Lễ toạ lạc tại trung tâm của thị trấn Cổ Lễ, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định. Đây không chỉ là ngôi chùa cổ nổi tiếng của tỉnh Nam Định mà còn của cả nước. Chùa có tên chữ là “Thần Quang Tự“.
Chùa Cổ Lễ thờ Phật và Thiền sư Nguyễn Minh Không – vị Đức Thánh tổ có công khởi dựng chùa vào thời Lý (thế kỷ XII). Minh Không Thiền sư thế danh là Nguyễn Chí Thành, quê ở làng Đàm Xá, thuộc đất Trường Yên, nay là xã Gia Thắng, huyện Gia Viễn tỉnh Ninh Bình. Ngài là một vị cao tăng nổi tiếng và là ông tổ của nghề đúc đồng Việt Nam. Với nhiều pháp thuật kỳ lạ, ngài thường đi chu du khắp nơi chữa bệnh cứu dân và đã từng cứu Vua Lý Thần Tông thoát khỏi căn bệnh nan y, được nhà vua phong làm Lý triều Quốc sư. Cùng với thiềng sư Giác Hải, thiền sư Từ Đạo Hạnh, ông được coi là một trong Nam Thiên tam vị thánh tổ.
Lược sử
Chùa Cổ Lễ do Quốc sư Minh Không xây dựng từ thế kỷ XII thời Lý Thần Tông. Trải qua những biến cố thăng trầm của lịch sử và thời gian, dấu tích cổ xưa bị phai mờ hoang phế. Đến năm 1902, Hòa thượng Phạm Quang Tuyên – một Thiền sư có đạo đức cao cả, một trí thức uyên bác, có biệt tài kiến trúc chùa tháp được giao về trụ trì chùa. Ông đã dốc tâm huyết kêu gọi các tín đồ thập phương bỏ công, của để xây dựng lại ngôi chùa.
Khi chủ trì công việc xây dựng chùa, tương truyền nhà sư Phạm Quang Tuyên không cần một bản vẽ thiết kế nào, không cần một chút vật liệu hiện đại là xi măng, sắt thép mà chỉ là gạch, vôi, vữa, mật, muối, giấy bản và công sức của nhân dân để xây dựng nên ngôi chùa có kiến trúc vừa hiện đại vừa cổ kính.
Đó chính là lý do giải thích vì sao ngôi chùa Cổ Lễ vừa mang vẻ uy nghiêm trầm mặc của một cổ tự hàng ngàn năm lịch sử, vừa mang dáng dấp hiện đại của một thánh đường Gia tô giáo với lối kiến trúc gô-tích (Gothic) của châu Âu.
Không chỉ tự tay thiết kế, hoà thượng Phạm Quang Tuyên còn kiến tạo lại toàn bộ công trình kiến trúc của chùa theo phong cách nghệ thuật độc đáo, mới lạ của cửa thiền, trên nền văn hoá dân tộc phương Đông, kết hợp hài hoà với Phương Tây.
Kiến trúc
Chùa có cảnh quan sơn thuỷ hữu tình, xung quanh có sông nhỏ và hồ bao quanh. Tuy có kết cấu “Tiền Phật, hậu Thánh” nhưng lại mang dáng dấp của một thánh đường Gia-tô giáo. Chùa cao gần 30m, với kết cấu mái vòm kiên cố. Trên trần có những bức bích họa rực rỡ tạo nên nét kiến trúc vừa hiện đại, vừa cổ kính, trang trọng.
Tổng quan khuôn viên chùa là một chỉnh thể gồm nhiều công trình kiến trúc khác nhau, trải rộng theo hướng Đông Tây như: cổng chùa, Tháp Cửu phẩm liên hoa, cầu cuốn, Tam quan, Phật giáo Hội quán, Đền thờ Trần Hưng Đạo (Linh Quang từ), Phủ Mẫu, chùa chính, nhà Tổ, nhà khách, phòng tăng, pháp đường, gác chuông “Kim Chung Bảo Các”…
Các hạng mục của di tích có nhiều nét khác với những công trình văn hóa tâm linh khác ở Việt Nam bởi sự kết hợp khéo léo các yếu tố kiến trúc cổ truyền với kiến trúc Gothic của châu Âu.
Tháp Cửu Phẩm Liên Hoa
Trước chùa là ngôi tháp Cửu Phẩm Liên Hoa cao 32m, có 8 mặt, được xây dựng năm 1927. Tháp được đặt trên lưng một con rùa lớn, đầu quay vào phía chùa, biểu tượng cho sự vững trãi, trường tồn nới đất Phật. Con rùa được nằm giữa hồ nước hình vuông, bốn góc là bốn hòn núi giả khá lớn, cổ đắp bốn con voi to bằng voi. Trong lòng tháp có cầu thang gồm 98 bậc xoắn ốc đến đỉnh. Tương truyền rằng tín đồ Phật tử, khách hành hương lên đến bậc thứ 98 này, sờ tay vào bức tượng trên đỉnh tháp thì cuộc sống sẽ luôn gặp may mắn.
Chùa Trình
Tiếp theo ngôi tháp là một chiếc cầu cong ba nhịp bắc qua hồ Chu Tích gọi là cầu Cuốn. Mặt cầu lát gạch.
Cầu Cuốn dẫn tới chùa Trình, còn gọi là Phật giáo Hội quán. Chùa Trình được xây vào năm 1936 và trùng tu vào năm 2001. Trong chùa có tượng Phật Quan Thế Âm nghìn tay. Trước sân chùa Trình có 2 lư đồng lớn. Đây cũng chính là nơi làm lễ cởi áo cà sa, khoác chiến bào cho 27 vị sư của chùa lên đường làm nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc vào ngày 27/02/1947.
Trước sân chùa Trình, ở hai bên cổng, có 2 lư hương khổng lồ.
Bên trái chùa Trình là đền Linh Quang Từ, được xây vào năm 1937, thờ Trần Hưng Đạo và hai tiến sĩ họ Đào người làng cổ Lễ là Bảng nhãn Đào Sư Mỗ và Tiến sĩ Đào Toàn Mễ. Bên phải chùa Trình là Khánh Quang phủ, được xây vào năm 1937, là nơi thờ Tam Tòa Thánh Mẫu.
Chuông Đại Hồng Chung
Sau lưng chùa Trình là một chiếc hồ lớn. Giữa hồ có một quả chuông nặng 9000 kg gọi là chuông Đại Hồng Chung. Quả chuông cao 4,2m, đường kính 2,2m, thành dày 8cm. Miệng chuông có họa tiết hình cánh sen, thân cổ họa tiết hoa lá, sông nước và một số văn tự chữ Nho.
Quả chuông này chưa được đánh một lần nào nhưng dân gian truyền miệng khi đánh lên thì cả tỉnh và một vài vùng lân cận sẽ nghe được tiếng ngân của chiếc chuông Đại hồng chung này. Đây là một trong những quả chuông lớn nhất ở Việt Nam.
Nhân dân quanh vùng vì yêu mến chùa mà đúc tặng. Trong quá trình đúc chuông, nhiều người đã tháo nhẫn, vòng, vàng hòa tan trong đó. Khi quả chuông vừa đúc xong thì kháng chiến bùng nổ, nhân dân trong vùng đề phòng sự phá hoại của giặc nên đã đem ngâm quả chuông xuống hồ. Năm 1954, chuông mới được trục vớt và được đặt trên bệ đá cho du khách tham quan từ đó đến nay.
Khu tiền đường & Tòa chính cung
Tòa chính cung là một trong những công trình thuộc chùa cổ Lễ khi sở hữu nét kiến trúc độc đáo kết hợp giữa Âu và Á, cổ và kim. Dù sở hữu nét văn hóa tâm linh của người Việt, của Phật Giáo Việt Nam như hình tượng phù điêu rồng phượng, mái đao, hoa sen, mái cuộn…nhưng công trình này vẫn sở hữu nét đẹp Tây hóa với kiến trúc mái vòm nguy nga như lâu đài cổ kính. Vì thế, đây là công trình đồ sộ, tráng lệ của Phật giáo. Phía sau tòa tam bảo là cung cấm của đức thánh tổ Nguyễn Minh Không theo lối kiến trúc thờ “Tiền Phật, Hậu Thánh”.
Kim Chung Bảo Các (Gác chuông)
Sau nhà thở tổ là một gác chuông sở hữu kiến trúc hoành tráng gồm 3 tầng 4 mặt gọi là Kim Chung Bảo Các. Gác chuông này sở hữu độ cao lên đến 13m40 và được xây dựng đến năm 1997. Tầng 2 của gác chuông này có treo 1 quả chuông đồng to cao tới 4m20 rộng 2m03 và nặng 9.000 kg. Chuông được đúc vào năm 2003. Tầng 3 có treo 1 quả chuông đồng từ thời Lê Cảnh Thịnh nặng 300kg.
Sau gác chuông chính là khu lăng mộ tổ của chùa. Trong chùa sở hữu một chiếc trống đồng và những chiếc thuyền dùng để thi bơi chải.
Di vật
Ngoài Đại Hồng Chung, trong Chùa Cổ Lễ hiện lưu giữ được nhiều di vật văn hóa quý hiếm như:
- Tượng Đức Phật Thích Ca, cao 4,20m ngự trên tòa sen trong tư thế nhập thiền, phía sau có vầng hào quang tỏa sáng thiêng liêng.
- Tượng Đức Thánh Tổ Nguyễn Minh Không bằng gỗ trầm hương trắng.
- Trống đồng trơn tương truyền từ thời Lý; lá cờ thần hai mặt ghi: “Nam thiên Thánh Tổ” và “Lý triều Quốc sư”.
- Cây cầu đá cổ di vật, từ xưa bắc qua hồ Chú Tích, nay đã được kê lên góc bên trái sân.