Giới thiệu chung
Chùa Hòe Thị tên chữ Hương Đỗ Tự, nằm trong một khuôn viên rộng và đẹp, nằm trong ngõ 143 Xuân Phương rẽ vào làng Hòe Thị. Tên nôm của làng này là Canh Chợ, trước kia thuộc xã Xuân Phương, huyện Từ Liêm, nay thuộc phường Phương Canh, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội. Tương truyền chùa được xây dựng vào khoảng giữa thời Lê Trung Hưng, tức là đã hơn 300 năm tuổi.
Lược sử
Hòe Thị ngoài nông nghiệp còn có nghề rèn và nghề hàn thiếc. Dân kể rằng: xưa có vị tướng của vua Hùng thứ 18 đi tuyển quân ngang qua làng, thấy cảnh vật tươi đẹp bèn hỏi thăm một cô gái xem đây là đâu, cô gái chỉ cười nên ngài đặt tên làng là Hòe Thị. Đi sang làng bên, ngài gặp cô gái khác và lại hỏi, cô gái không cười không nói gì cả, ngài liền đặt tên làng là Thị Câm, sau đổi thành Thị Cấm.
Vị tướng đó là Phan Ông Tây Nhạc, gốc người huyện Hà Trung thuộc châu Ái, có công bảo vệ đất nước, về sau được tôn làm thành hoàng của cả 2 làng. Đình Thị Cấm là nơi ngài tuyển quân và việc đó chỉ diễn ra vào một ngày duy nhất. Để kỷ niệm ngày này, dân làng tổ chức lễ hội, trong đó có trò thi kéo lửa thổi cơm. Trong đình còn thờ bà vợ ba của ngài là Hoa Dung, người có công giữ thành và tiếp tế quân lương.
Chùa Hòe Thị ban đầu ở xóm Gáo ven con đường cổ đi từ Cầu Giấy qua Cầu Diễn rồi Thị Cấm đến bến đò Cổ Sở trên sông Đáy (tức bến Giá, nay thuộc xã Yên Sở, huyện Hoài Đức). Căn cứ vào đạo sắc phong cổ nhất và bức chạm khắc còn giữ tại đây, có thể đoán rằng đình có từ thế kỷ XVII. Đến năm 1831 dân làng mới di chuyển đình ra vị trí bây giờ.
Kiến trúc
Chùa tọa lạc trên một khu đất cao ráo có nhiều cổ thụ ở rìa thôn Hòe Thị, cổng sau mở ra đường làng. Cổng trước nhìn về hướng tây ra cánh đồng ở bên kia đường TL70A. Đi qua một sân gạch tuy ngắn nhưng rộng và hai bên có 2 giếng nhỏ hình trái xoan, du khách sẽ đến tam quan khá hoành tráng với cửa chính xây 3 tầng 12 mái và 2 cửa phụ xây 2 tầng 8 mái đắp ngói giả.
Sau tam quan là một sân dài, phía bắc giáp vườn cây lớn, phía nam giáp ao sen ngăn cách với đường làng, chính giữa là phương đình nhỏ xây 2 tầng 8 mái với 16 cột vuông. Tiếp theo, ở cuối sân là tiền đường gồm 5 gian rộng, kết nối với hậu cung 3 gian dài thành hình “chữ Đinh”. Thiêu hương và thượng điện xây 2 tầng khá cao với 3 hàng cửa sổ bên hông. Phía sau tam bảo chếch về phía bắc là khu nhà tăng, nhà khách, nhà thờ Tổ và điện Mẫu rất lớn, tất cả các nếp nhà đều có tường hồi bít đốc.
Trải qua ba thế kỷ với nhiều biến động xã hội và tự nhiên, ngôi chùa từng bị đổ nát nhưng ít nhất cũng đã đại trùng tu vào năm 1928. Ngày 9-1-1990 chùa Hòe Thị được Bộ Văn hóa – Thông tin xếp hạng Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật quốc gia. Hiện nay, chùa đang được tôn cao và mở rộng nhưng về cơ bản vẫn mang dáng vẻ của nghệ thuật kiến trúc cuối thời Nguyễn.
Di vật
Chùa Hòe Thị hiện nay không lưu giữ được nhiều cổ vật. Tuy nhiên trong tòa tam bảo vẫn có đầy đủ các tượng Phật giáo theo hệ phái Bắc tông, đáng chú ý là một pho tượng Quan Âm Chuẩn Đề với 24 cánh tay thanh thoát. Ngoài ra còn có một đại hồng chung đúc năm 1932 và một quả chuông đồng nhỏ hơn, đúc năm Thành Thái thứ 8 (1896).
Tham khảo
- http://ditichlichsu-vanhoahanoi.com/2017/10/07/chua-hoe-thi/
- http://wikizisan.vn/baiviet/?article=3044