Tên gọi và vị trí địa lý
Chùa Ngũ Xá, còn có tên chữ là Thần Quang Tự, tọa lạc tại số 44 phố Ngũ Xã, phường Trúc Bạch, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội. Đây là một ngôi chùa cổ kính nằm trên bán đảo Ngũ Xá, bên cạnh hồ Trúc Bạch, không chỉ nổi tiếng bởi cảnh quan sơn thủy hữu tình mà còn bởi bề dày lịch sử và giá trị văn hóa Phật giáo lâu đời.
Tên gọi “Ngũ Xá” có nghĩa là “năm phường thợ”, gợi nhắc đến cộng đồng dân cư vốn có nghề đúc đồng nổi tiếng từ thế kỷ XVII, nổi tiếng gắn với câu ca:
“Lĩnh hoa Yên Thái
Đồ gốm Bát Tràng
Thợ vàng Định Công
Thợ đồng Ngũ Xã”
Tên chữ “Thần Quang tự” lấy từ cái tên chùa thờ Minh Không ở Thái Bình mà dân gian quen gọi là chùa Keo. Chùa xây từ thế kỷ 18, ngoài việc thờ Phật, còn thờ Nguyễn Minh Không là vị thiền sư thời Lý, đã chữa bệnh cho vua Lý Thần Tông nên được phong là Lý quốc sư; ông cũng còn được truyền tụng như là ông tổ của nghề đúc đồng do huyền thoại “trâu vàng hồ Tây”.
Lịch sử và nhân vật
Chùa Ngũ Xã là ngôi chùa cổ kính có lịch sử gắn bó mật thiết với cộng đồng làng nghề đúc đồng Ngũ Xã – một trong những phường thợ thủ công nổi tiếng của kinh thành Thăng Long xưa. Theo sử liệu và truyền khẩu dân gian, chùa được dựng vào cuối thời Hậu Lê, khoảng cuối thế kỷ XVII, đầu thế kỷ XVIII, khi các tổ nghề đúc đồng từ Nam Định ra định cư tại ven hồ Trúc Bạch, lập nên thôn Ngũ Xã (nghĩa là “năm xã”, gồm năm dòng họ lớn: Trương, Nguyễn, Lê, Phạm, Đinh). Khi ấy, cư dân đã dựng chùa để làm nơi sinh hoạt tín ngưỡng, cầu an, đồng thời phụng thờ Đức Thánh Nguyễn Minh Không – thiền sư đời Lý, vị tổ được suy tôn là ông tổ nghề đúc đồng, người có công khai sáng nghề và truyền bá nhiều kỹ thuật chế tác kim loại tinh xảo.
Trong suốt hơn hai thế kỷ tồn tại, chùa đã nhiều lần được sửa chữa, trùng tu. Đặc biệt, vào năm 1949, sau một trận hỏa hoạn lớn thiêu rụi phần lớn kiến trúc cũ, Hòa thượng Thích Mật Đắc đã phát tâm khởi công đại trùng tu chùa. Công trình được khởi dựng lại với hai tòa nhà hai tầng liền kề nhau theo thế chữ “nhị” (二), nối liền với nhà tả vu, tiếp giáp với đài tưởng niệm liệt sĩ và lưng đình Ngũ Xã. Quá trình xây dựng kéo dài trong ba năm, hoàn thành vào đầu thập niên 1950, hình thành nên bố cục kiến trúc cơ bản vẫn còn duy trì đến nay.
Tuy nhiên, từ năm 1963 đến năm 1990, chùa tạm thời không do Giáo hội Phật giáo quản lý mà được Nhà nước sử dụng vào mục đích sinh hoạt cộng đồng. Đặc biệt, năm 1989, cơ sở vật chất của chùa được trưng dụng làm hội trường Đảng, nhà trẻ, và nhà văn hóa khu dân cư, khiến không gian thờ tự bị biến dạng và thu hẹp đáng kể. Trong thời gian này, khuôn viên chùa còn bị lấn chiếm, có đến 20 hộ dân cư sinh sống trong phạm vi đất chùa.
Đến năm 1991, dưới sự chỉ đạo của Giáo hội Phật giáo và sự hỗ trợ của chính quyền địa phương, Đại đức Thích Chánh Tín được bổ nhiệm về trụ trì chùa Ngũ Xã. Đại đức đã nỗ lực vận động, phối hợp di dời 20 hộ dân cư ra khỏi khuôn viên, giải phóng mặt bằng cho công tác tôn tạo di tích. Ngay sau đó, chùa tiến hành trùng tu nhà Tổ, nhà Mẫu, khôi phục các ban thờ và kiến thiết lại các không gian tâm linh theo truyền thống.
Nhờ những nỗ lực đó, chùa dần trở lại với vai trò là trung tâm sinh hoạt tín ngưỡng và văn hóa Phật giáo quan trọng của phường Trúc Bạch, đồng thời là một di tích tiêu biểu cho mối quan hệ giữa Phật giáo và làng nghề truyền thống trong dòng chảy lịch sử – văn hóa Thăng Long – Hà Nội.
Kiến trúc cảnh quan
Chùa được xây dựng theo hướng chính Nam, quay mặt ra phố Ngũ Xã với kiến trúc tổng thể mang phong cách hiện đại kết hợp hài hòa với yếu tố truyền thống. Hệ thống cổng tam quan nổi bật là một công trình quy mô, được xây dựng theo kiểu hai tầng tám mái lợp ngói ống, thể hiện rõ tính chất tôn nghiêm và biểu tượng của Phật giáo Bắc tông.
Tam Quan chùa Ngũ Xã quay mặt về hướng Nam, mở thẳng ra phố Ngũ Xã. Cổng chính được xây theo lối hai tầng tám mái lợp ngói ống, thể hiện phong cách kiến trúc truyền thống kết hợp với kỹ thuật xây dựng hiện đại. Phần diềm cổ giữa hai tầng có các ô tượng đắp nổi bốn mặt. Lối vào là cửa gỗ sáu cánh hình vuông. Hai bên cổng chính đặt đôi sư tử đá chầu bậc tam cấp – biểu tượng canh giữ linh thiêng, và hai bảo tháp chín tầng gắn trên trụ của tường hoa.
Hai cổng phụ đối xứng hai bên, cũng được xây kiểu hai tầng mái, nhưng quy mô nhỏ hơn, chỉ trang trí câu đối, không có tượng hay phù điêu như cổng chính. Sau cổng là hòn non bộ nhỏ đặt làm bình phong, phía sau có 13 bậc thềm dẫn lên hàng hiên tầng trên – không gian thờ tự chính của chùa. Hai bên thềm có đôi rồng đá uốn khúc, miệng ngậm ngọc.
Tiền Đường nằm ở tầng trên, được thiết kế hiện đại bằng kết cấu bê tông cốt thép, nhưng vẫn giữ bố cục truyền thống gồm 5 gian. Tất cả đều có cửa võng trang trí công phu, sàn lát gỗ bóng, trần cao thoáng. Gian giữa là Chính Điện thờ nơi đặt pho tượng Phật A-di-đà bằng đồng đen nổi tiếng. Pho tượng cao 3,95m, hai đầu gối cách nhau 3,60m, chu vi thân tượng 11,60m, nặng khoảng 10 tấn. Tượng ngồi trên tòa sen cao 1,45m, có 96 cánh sen, chu vi 15m, nặng gần 4 tấn. Đây là công trình điêu khắc đúc đồng lớn bậc nhất Việt Nam giữa thế kỷ XX, gắn liền với tên tuổi nghệ nhân Nguyễn Khắc Hiếu (tạo mẫu) và thợ cả Nguyễn Văn Tùng (chỉ đạo thi công).
Hai gian hành lang dẫn vào hậu cung đặt tượng Hộ pháp, trong khi gian bên trái ngoài cùng thờ Thánh Tăng, gian phải thờ Đức Ông. Phía đầu hồi có hương án thờ gia tiên và đặt đồ tế khí phục vụ các lễ cầu siêu. Hệ thống cửa sổ nhỏ trên cao lấy sáng tự nhiên, tạo không khí trang nghiêm.
Nhà Mẫu nằm bên phải khu Chính Điện, được xây dựng đồng bộ về kiểu dáng nhưng có sàn cao hơn và trần thấp hơn. Tầng trên chia làm 3 gian: gian giữa thờ Tam Tòa Thánh Mẫu, gian bên trái thờ Quan Tam Thánh, gian bên phải thờ Sư Tổ. Đây là không gian tín ngưỡng dân gian song hành với nghi lễ Phật giáo, thể hiện sự dung hòa tôn giáo truyền thống. Góc hiên cạnh thang dẫn sang tòa nhà có đặt bàn thờ Quán Thế Âm Bồ tát, gắn liền với sinh hoạt tín ngưỡng phổ biến trong cộng đồng cư dân Phật tử.
Nhà Tổ là nơi thờ chư vị Tổ sư, những người khai sơn, trụ trì có công gắn bó với chùa. Trong đợt trùng tu cuối thế kỷ XX, Nhà Tổ được tu sửa khang trang nhờ công đức của Đại đức Thích Chánh Tín và sự phát tâm của tín đồ. Đây là không gian trang nghiêm, nằm phía sau khu chính điện, có bố cục riêng biệt để thuận tiện trong việc tổ chức lễ húy kỵ, cúng giỗ, tưởng niệm Tổ sư.
Nhà Tăng, Nhà Khách: Tầng dưới của tòa nhà bên phải được bố trí làm Nhà Tăng và Nhà Khách, là nơi ở và sinh hoạt của chư Tăng cũng như tiếp đón khách thập phương, tăng ni hành hương. Không gian này thông ra một khoảng sân nhỏ có trồng cây muỗm cổ thụ, trên cành treo chuông đồng nhỏ, một hình ảnh mang đậm chất thiền môn, vừa bình dị vừa linh thiêng.
Hiện vật
- Tượng Phật A-di-đà bằng đồng đen
Đây là hiện vật trung tâm và có giá trị nghệ thuật – kỹ thuật đặc biệt nhất trong toàn bộ không gian thờ tự của chùa. Pho tượng được đúc bằng đồng đen nguyên khối, mô tả Đức Phật A-di-đà trong tư thế tọa thiền kiết già trên tòa sen. Tượng cao 3,95m, hai đầu gối cách nhau 3,60m, chu vi thân tượng 11,60m, nặng khoảng 10 tấn. Tòa sen nâng tượng gồm 96 cánh hoa, cao 1,45m, chu vi 15m, nặng khoảng 3,9 tấn. Tổng khối lượng toàn bộ công trình vượt trên 13 tấn đồng – trở thành tượng đồng lớn nhất Việt Nam tại thời điểm hoàn thành vào giữa thế kỷ XX. Tượng do nghệ nhân Nguyễn Khắc Hiếu tạo mẫu, thợ cả Nguyễn Văn Tùng chỉ huy kỹ thuật và giám sát thi công trong thời kỳ chùa được trùng kiến sau chiến tranh. Đồng đúc được quyên góp từ tín đồ Phật tử khắp nơi, trong đó có cả hai pho tượng đài bị kéo đổ trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945: tượng Toàn quyền Paul Bert và phiên bản tượng Nữ thần Tự do, từng đặt tại các không gian công cộng ở Hà Nội. Pho tượng A-di-đà không chỉ là biểu tượng tâm linh mà còn là tác phẩm tổng hòa các yếu tố lịch sử – văn hóa – nghệ thuật – chính trị, phản ánh một giai đoạn đầy biến động của đất nước.
- Tượng Hộ pháp và hệ thống tượng thờ
Hai tượng Hộ pháp đặt tại gian hành lang nối tiền đường và hậu cung, thể hiện uy nghi, trang phục võ sĩ, tay cầm binh khí. Ngoài ra, các không gian thờ còn có tượng Đức Ông, Thánh Tăng, Sư Tổ, Tam Tòa Thánh Mẫu, Quan Tam Thánh, và Quán Thế Âm Bồ tát. Các tượng đều được bài trí theo nguyên tắc nghi lễ Phật giáo kết hợp tín ngưỡng dân gian, nhiều pho được làm từ gỗ sơn son thếp vàng hoặc hợp chất, thể hiện phong cách điêu khắc truyền thống.
- Hệ thống bia đá
Chùa hiện lưu giữ được 16 tấm bia đá dựng từ năm 1919 đến 1947, ghi chép quá trình trùng tu, công đức, danh sách các vị trụ trì và những sự kiện quan trọng trong lịch sử chùa. Đây là nguồn tư liệu văn bản học quý giá, có giá trị trong nghiên cứu lịch sử Phật giáo Thăng Long – Hà Nội đầu thế kỷ XX. Đặc biệt, toàn bộ số bia trên không hề bị hư hại trong vụ hỏa hoạn, chứng tỏ mức độ bảo quản tốt và giá trị vật chất bền vững.
- Đồ thờ bằng đồng lớn
Bên cạnh tượng Phật, chùa còn sở hữu nhiều đồ đồng lớn mang giá trị thủ công mỹ nghệ cao:
Bộ lư hương bằng đồng đặt ở chính điện, nặng khoảng 300kg, cao 0,76m, chạm nổi các họa tiết long vân, tứ linh và hoa văn sen cách điệu.
Cặp chân đèn đồng hai bên lư, mỗi cây cao 1,2m, nặng khoảng 300kg, chạm khắc tinh xảo, tạo thế cân đối – tôn nghiêm cho không gian thờ tự.
- Chuông đồng nhỏ và các tự khí khác
Ngoài những hiện vật lớn, chùa còn lưu giữ chuông đồng nhỏ treo ở hiên gác, thường được dùng vào giờ tụng niệm hoặc khi khai lễ. Một số đèn lồng gỗ, đỉnh hương trầm, trống mõ, bát nhang cổ và đồ lễ cũng được gìn giữ cẩn thận, góp phần hoàn thiện không gian tín ngưỡng truyền thống.
Toàn bộ hệ thống hiện vật của chùa Ngũ Xã là kết tinh của tín tâm Phật tử, truyền thống làng nghề, và dấu ấn lịch sử của một thời kỳ đặc biệt trong thế kỷ XX. Không chỉ có giá trị tôn giáo, các tác phẩm ở đây còn đóng vai trò như chứng tích vật thể phản ánh mối quan hệ giữa văn hóa bản địa và biến chuyển xã hội – chính trị hiện đại.
Sự kiện và lễ hội
Hằng năm, Hội Ngũ Xã Nam Tràng được tổ chức từ ngày mùng 1 đến ngày 17 tháng Giêng âm lịch, trong đó chính hội rơi vào ngày 17 tháng Giêng. Đây là dịp lễ hội đầu xuân quan trọng, diễn ra đồng thời tại đình và chùa Ngũ Xã, thu hút đông đảo người dân địa phương và khách thập phương về tham dự.
Trong không khí trang nghiêm và rộn ràng của mùa xuân, lễ hội là sự kết hợp giữa phần lễ và hội: phần lễ diễn ra tại chùa và đình nhằm tưởng niệm các bậc tiền nhân, cầu quốc thái dân an, mưa thuận gió hòa; phần hội gồm nhiều hoạt động văn hóa dân gian truyền thống như: cờ người, hát chèo, chọi gà, góp phần gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa địa phương.
Lễ hội Ngũ Xã không chỉ là dịp thể hiện lòng tri ân tổ tiên và ông tổ nghề đúc đồng Nguyễn Minh Không, mà còn là minh chứng sinh động cho sự gắn bó giữa đời sống tâm linh và cộng đồng làng nghề đã có truyền thống hàng trăm năm trên đất Thăng Long – Hà Nội.
Xếp hạng
Ngày 11 tháng 5 năm 1993, chùa Thần Quang (chùa Ngũ Xã) cùng với đình Ngũ Xã đã được Bộ Văn hóa – Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng là Di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia, theo Quyết định số 534/QĐ-BT. Việc xếp hạng này không chỉ khẳng định giá trị lịch sử, kiến trúc và nghệ thuật đặc sắc của chùa, mà còn là cơ sở pháp lý quan trọng để bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị di sản trong đời sống văn hóa đương đại.
Tài liệu tham khảo
- Hồng Phú, “Điều ít biết về tượng Phật bằng đồng lâu đời nhất Việt Nam”, Báo Dân Việt, Ngày 21/11/2020.
- Thiện Minh, “Chùa Ngũ Xá – Nơi an vị pho tượng Phật khổng lồ đặc biệt của Hà Nội”, phatgiao.org.vn
- Chùa Ngũ Xã, Cổng thông tin du lịch quận Ba Đình.
- Sơn Dương, “Đình, chùa Ngũ Xã (quận Ba Đình)”, Tạp chí Người Hà Nội online, Ngày 25/04/2023.
- Chùa Ngũ Xã, Di tích Lịch sử – Văn hóa Hà Nội.
- Lưu Minh Trị (2011), Hà Nội Danh thắng và Di tích tập 01, Nxb Hà Nội.
_____________________________________________________________
Các ngôn ngữ khác
Tiếng Anh (English)
Ngũ Xá Temple, also known as Thần Quang Tự, is situated at 44 Ngũ Xã Street, Trúc Bạch Ward, Ba Đình District, Hanoi. Built during the Hậu Lê period in the 18th century, the temple is dedicated to Buddha and Nguyen Minh Khong, the founding father of bronze casting. It is named “Thần Quang” after the renowned monk who established several other temples such as Cổ Lễ (Nam Định) and Keo (Thái Bình). The temple follows the Northern Buddhist tradition.
Due to a fire in 1949, Venerable Thích Mật Đắc decided to reconstruct the temple with a modern architecture, completing the project in 1951. In 1952, under his guidance, the reconstruction continued, resulting in the creation of the giant bronze statue of Buddha Amitabha, one of the largest in Vietnam. The casting process took place from 1949 to 1952, and the statue measures 3.95m in height, with a distance of 3.60m between the knees, a circumference of 11.60m, and a weight of 10 tons. The bronze lotus base has 96 petals, standing 1.45m tall, with a circumference of 15m, and weighing 3.9 tons. The temple also houses a bronze incense burner weighing 300 kg and two bronze lamps, each weighing 300 kg and standing 1.2m tall. Additionally, 16 stone steles dating from 1919 to 1947 are preserved in the temple.
On May 11, 1993, both Chua Thần Quang and the Ngũ Xá communal house were recognized as national architectural and artistic monuments.
Tiếng Trung (Chinese):
五舍寺,又称神光寺,位于河内市巴亭区竹柏街44号。建于18世纪后黎时期,以尊敬佛陀和青铜铸造创始人阮明空,因此得名“神光”,以纪念这位创办了多座寺庙,如Cổ Lễ寺(南定)和Keo寺(泰平)。这座寺庙属于北宗佛教传统。
1949年发生火灾后,师父Thích Mật Đắc决定采用现代建筑风格进行全面重建,并于1951年完成。1952年,Thích Mật Đắc继续指导寺庙的现代化重建。阿弥陀佛青铜像,位于主殿,是越南目前最大的青铜雕像之一。这尊雕像于1949年至1952年间铸造,高3.95米,两膝之间距离3.60米,周长11.60米,重10吨。莲花座上有96片花瓣,高1.45米,周长15米,重3.9吨。寺庙还拥有一个300公斤重的铜香炉,高0.76米,以及两个铜灯,每个重300公斤,高1.2米。此外,寺庙还保留了16块从1919年到1947年的石碑。
1993年5月11日,神光寺和五舍社区房屋均被认定为国家建筑和艺术纪念碑。
Tiếng Pháp (French)
Le temple Ngũ Xá, également connu sous le nom de Thần Quang Tự, est situé au 44 rue Ngũ Xã, quartier Trúc Bạch, district de Ba Đình, à Hanoï. Construit pendant la période Hậu Lê au XVIIIe siècle, le temple est dédié au Bouddha et à Nguyen Minh Khong, le fondateur de la fonderie de bronze. Il porte le nom de “Thần Quang” d’après le moine renommé qui a établi plusieurs autres temples tels que Cổ Lễ (Nam Định) et Keo (Thái Bình). Le temple suit la tradition bouddhiste du Nord.
En raison d’un incendie en 1949, le Vénérable Thích Mật Đắc a décidé de reconstruire entièrement le temple avec une architecture moderne, achevant le projet en 1951. En 1952, sous sa direction, la reconstruction a continué, aboutissant à la création de la gigantesque statue de bronze du Bouddha Amitabha, l’une des plus grandes du Vietnam. Le processus de fonte a eu lieu de 1949 à 1952, et la statue mesure 3,95m de hauteur, avec une distance de 3,60m entre les genoux, une circonférence de 11,60m et un poids de 10 tonnes. La base en bronze en forme de lotus a 96 pétales, mesure 1,45m de hauteur, avec une circonférence de 15m et un poids de 3,9 tonnes. Le temple abrite également un brûleur d’encens en bronze pesant 300 kg et deux lampes en bronze, chacune pesant 300 kg et mesurant 1,2 m de hauteur. De plus, 16 stèles en pierre datant de 1919 à 1947 sont conservées dans le temple.
Le 11 mai 1993, le Chua Thần Quang et la maison communale Ngũ Xá ont été reconnus comme monuments architecturaux et artistiques nationaux.