Đền Mẫu Tiên La (Hưng Hà, Thái Bình)

Đền Mẫu Tiên La (Hưng Hà, Thái Bình)

Thông tin cơ bản

Tên gọi và vị trí địa lý

Đền Tiên La, một di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia, nằm tại xã Đoan Hùng, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình. Đây là một trong những ngôi đền cổ có kiến trúc đá đồ sộ nhất vùng châu thổ sông Hồng. Với nghệ thuật kiến trúc độc đáo và vị trí đất thiêng huyền bí, ngôi đền tạo ra một sự cộng hưởng linh thiêng, thu hút du khách từ khắp nơi.

Lịch sử và nhân vật

Ngôi đền thờ Bát Nạn Tướng Quân Vũ Thị Thục, một nữ danh tướng trong khởi nghĩa Hai Bà Trưng, đã tồn tại gần hai nghìn năm. Bà sinh năm 17 và mất năm 43, được biết đến với công lao đánh bại Tô Định và được phong tước “Đông Nhung Đại Tướng Quân”. Tên bà còn được gọi là Bát Nàn hay Bát Não ở một số nơi. Bát Nàn công chúa được ghi chép trong các truyền thuyết và thần tích của làng Tiên La, Hưng Hà, Thái Bình, Đền Rẫy, Đền Buộm ở xã Tân Tiến – Hưng Hà – Thái Bình, cũng như thần tích thờ ở miếu Phượng Lâu, huyện Phù Ninh, Vĩnh Phúc. Theo thần tích do Hàn Lâm đại học sĩ Nguyễn Bính thời Hậu Lê biên soạn, Thục Nương sinh ra tại quê ngoại vùng Hương Đa Cương (nay thuộc xã Tân Tiến – Hưng Hà – Thái Bình), lớn lên tại quê cha (Phượng Lâu – Vĩnh Phúc). Bà là con gái của Võ Công Chất và Hoàng Thị Mầu, nổi tiếng xinh đẹp, đoan trang, có lòng yêu nước và giỏi võ nghệ. Cha bà là hào trưởng ở Phượng Lâu, nên khi bà chào đời, cha mẹ đặt tên là Thục. Về sau, bà được gọi là Thục Nương vì nổi tiếng tài sắc.

Cha mẹ bà đã đính hôn bà với Phạm Danh Hương (có sách chép là vị Lạc hầu Trương Quán) quê ở Đức Bác (Liệp Trang – huyện Lập Thạch). Cả hai vợ chồng đều có lòng yêu nước và bí mật lo việc cứu nước giúp dân. Lúc bấy giờ, nước ta bị nhà Hán cai trị, lập các quận Giao Chỉ, Nam Hải, Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố và cho Thái Thú Tô Định cai quản, lập hệ thống Lạc hầu, hào mục từ trung ương xuống địa phương, mua chuộc những kẻ gian tham làm tay sai. Hào mục Trần tại nơi bà sinh sống, vì không cưới được Thục Nương, đã mưu với Tô Định, vu cáo Phạm Danh Hương làm phản. Năm Kỷ Hợi 39, khi Đặng Thi Sách bị giết ở Châu Diên, chồng bà cũng bị giết ở Diên Hà. Quân Tô Định vây chặt dinh trại, bà phải cầm song đao, mở đường máu chạy đến làng Tiên La, ẩn thân trong chùa. Từ đó, bà quyết chí báo phục, chiêu tập hào kiệt, dựng cờ khởi nghĩa.

Tháng ba năm Canh Tý (năm 40 sau Công nguyên), Hai Bà Trưng dựng cờ khởi nghĩa, bà tham gia và cùng nữ tướng Lê Chân (quê Hải Phòng), nữ tướng Xuân Nương (quê Tam Nông – Phú Thọ) thống lãnh quân tiên phong. Nghĩa quân của Thục Nương sát cánh chiến đấu và giành chiến thắng, năm 41, đất nước hoàn toàn giải phóng. Hai Bà Trưng lên ngôi vua, đóng đô tại Mê Linh – Vĩnh Phúc, trong đó có công lao lớn của bà. Trưng Vương phong bà làm Bát Nạn đại tướng quân, Trinh Thục Công Chúa, Uy viễn đại tướng quân, Đông Nhung đại tướng quân. Bà từ chối tước lộc, chỉ xin đem đầu giặc tế chồng, rồi trở về chùa làng Tiên La sinh sống.

Năm Quý Mão 43, nhà Hán sai Phục Ba Mã Viện đem 20 vạn quân sang phục thù. Bà cùng đội nghĩa binh của mình chiến đấu anh dũng, nhưng lực lượng yếu hơn. Hai Bà Trưng tuẫn tiết hy sinh trên sông Hát ngày 6 tháng 2. Đông Nhung đại tướng quân cũng bị quân địch khoả thân bao vây. Bà mở đường máu thoát về chùa Tiên La nhưng bị giặc đuổi tới, bà rút gươm tự vẫn ngày 16/3 năm Quý Mão.

Theo truyền thuyết, khi bà tuẫn tiết, giặc lập trại canh xác bà bên gốc quế, nhưng sáng hôm sau, bên gốc cây quế có đống đất mối phủ xác bà. Thấy vậy, giặc không dám đụng chạm xác bà nữa. Từ đó, dân Tiên La xây dựng đền thờ bà và hương khói không bao giờ tắt, tổ chức hội ghi nhớ công đức bà vào ngày mồng 10 và 3 ngày hội chính là 15, 16, 17 tháng 3 âm lịch hàng năm. Bà được gọi là chúa Thượng ngàn vì thường cai quản 18 cửa ngàn khi cầm binh khí đuổi giặc. Ngôi chùa bà từng tu, sách chép là chùa Nam Liên trên núi, nên bà cũng được biết đến là sư nữ Nam Liên.

Kiến trúc cảnh quan

Đền tọa lạc giữa thôn Tiên La (trước đây là gò Kim Quy), xã Đoan Hùng – huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình trên diện tích khoảng 6000 m2. Mặt trước đền hướng ra con sông Tiên Hưng gần ngã ba đổ ra sông Luộc. Trải qua nhiều lần tu bổ, đến nay đền có quy mô lớn và đẹp, bao gồm nhiều công trình như hiện nay.

Toàn bộ ngôi đền được xây dựng theo cấu trúc “Tiền nhất – Hậu đinh” chuẩn cổ, từ cột, kèo đến đao mái uốn cong, mang hình dáng rồng bay hoặc Lưỡng Long Chầu Nguyệt. Ngôi đền gồm ba tòa chính: Đại Bái (Tiền tế), Trung tế và Hậu điện hay còn gọi là Hậu Cung. Qua cổng Tam quan ngoại, du khách sẽ vào sân đền và tiếp tục qua Tam quan nội, hai bên là Lầu Cô và Lầu Cậu.

Tòa Tiền Tế gồm năm gian, nơi du khách có thể chiêm ngưỡng những bức đại tự với các câu đối cổ ca ngợi triều Trưng Vương và phẩm hạnh, tài sắc của nữ tướng Bát Nàn. Tòa điện Bái đường và Thượng điện của đền được làm từ gỗ tứ thiết, nội thất chạm trổ hình long, lân, quy, phượng xen lẫn với thông, cúc, trúc, mai rất tinh xảo.

Tòa Trung tế là một công trình kiến trúc đặc sắc xây dựng theo kiểu phương đình, với lối “Chồng diêm cố các”. Điểm đặc biệt là toàn bộ vật liệu xây dựng của tòa Bái đường đều làm bằng đá, bao gồm hệ thống cột, xà, kèo đá. Tòa điện này được xây dựng với mười sáu cột đá lớn, tám xà đá và tám kèo đá, tất cả đều được chạm khắc rất công phu và tinh xảo. Bốn cột cái chạm tứ linh, mười hai cột quân chạm long vân, tám xà chạm thông, cúc, trúc, mai xen lẫn long, ly, quy, phượng.

Tòa cuối của đền là Hậu cung, gồm ba gian nằm sâu bên trong, nơi được tương truyền là có mộ của Bà. Trên nóc hiện còn bức đại tự rất quý với bốn chữ Vạn Cổ Anh Linh” bằng chữ Hán. Gian giữa Hậu cung đặt một ban thờ, trên có ngai và tượng Bát Nạn Tướng Quân Vũ Thị Thục, xung quanh thờ các tướng sĩ và quân lính của bà. Gian bên trái thờ thân phụ, gian bên phải thờ thân mẫu của Bà. Các ngai thờ và tượng thờ đều có từ lâu đời, theo nghiên cứu thuộc thời Tiền Lê, một số thuộc thời Trần và Hậu Lê. Ngoài ra, đền còn lưu giữ nhiều đồ tế khí có giá trị thẩm mỹ niên đại từ thời Lê, cùng các tài liệu như thần tích và sắc phong thần từ thời Lê đến thời Nguyễn, các bia đá, minh chuông…

Sự kiện và lễ hội

“Đã là con mẹ, con cha. Tháng ba giỗ Mẫu Tiên La thì về”

Lễ hội đền Tiên La để tưởng nhớ công ơn Bát Nạn Tướng Quân trước đây được tổ chức từ ngày 15 đến 17 tháng Ba âm lịch hàng năm. Ngày nay, để phục vụ đông đảo du khách, Ban tổ chức lễ hội đã mở hội từ đầu tháng Ba, với chính hội diễn ra vào ngày 17 âm lịch, trùng với ngày hy sinh của Bà (ngày 17 tháng 3 năm Quý Mão). Nét đặc sắc trong lễ hội Tiên La là lễ rước nước, gồm hai đoàn rước: đoàn rước thủy và đoàn rước bộ, bắt đầu từ cửa đền Tiên La, xã Đoan Hùng, đến ngã ba sông Luộc. Đoàn rước bao gồm đội múa rồng, đội rước cờ, đoàn rước kiệu Mẫu, kiệu bát cống, và kiệu long đình. Hai đoàn rước thủy và bộ gặp nhau tại ngã ba sông Luộc để lấy nước đổ vào chóe sứ. Chóe nước sau đó được đặt trên kiệu Mẫu và rước về đền để trong cung cấm. Sau lễ rước nước là các phần tế lễ, mở đầu là đội tế nữ quan của làng Tiên La, tiếp theo là các đội tế của các làng trong khu vực.

Trong phần hội có các trò chơi dân gian như chọi gà, đấu vật, múa rồng, múa sư tử. Đặc biệt là phần rước kiệu, rước nước và một số trò chơi dân gian khác như đánh đáo, thổi sáo trúc, tất cả đều đậm đà bản sắc dân tộc. Ngoài ra, trong các dịp lễ hội còn có nhiều đoàn văn hóa nghệ thuật từ tỉnh Thái Bình và các tỉnh lân cận về biểu diễn các tiết mục văn hóa đặc sắc như các vở chèo: Quan Âm Thị Kính, Lưu Bình – Dương Lễ, Phạm Trần – Cúc Hoa.

Xếp hạng

Đền Tiên La được công nhận di tích quốc gia theo quyết định số 235/VH/QĐ ngày 12/11/1986

Tham khảo

  1. http://ditichlichsuvanhoa.com/dttc/DEN-TIEN-LA-a690.html
Chấm điểm

Hình ảnh

Chia sẻ

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *


Banner App ChỐn ThiÊng 3 (60x90)