Tên gọi và vị trí địa lý
Đền Trát Cầu, nằm trên trục làng Trát Cầu đi về Ngọc Động thuộc xã Tiền Phong, huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội. Tọa lạc tại một khu vực đất đai màu mỡ, gần sông và có cảnh quan thiên nhiên đẹp mắt, đền Trát Cầu là nơi hội tụ của những yếu tố thiên nhiên và văn hóa truyền thống.
Lịch sử và nhân vật
Theo tấm bia dựng ở đền vào năm 2012 ghi lại từ ngọc phả, Đền Trát Cầu thờ thần Cầu Mang, và có lịch sử xây dựng lâu đời từ khoảng đầu thế kỷ XVI. Đến năm 1577, đền được tu bổ và lúc này có tên là “Hưng Linh tự”, tọa lạc trên khu đất gần gò Đống Riêu. Sau đó, vào năm Cảnh Hưng 45, ngôi đền được di chuyển đến địa điểm sát xóm Chùa, nơi tọa lạc cho đến ngày nay. Vào triều Gia Long thứ 12 (1813), ngôi đại bái của đền đã được tu bổ và nâng cấp. Năm Minh Mạng thứ 5 (1826) tu tạo Đại bái. Năm Thành Thái thứ 10 (1889) tái tu tạo Đại bái, xây thêm hai nhà Tả, Hữu vu cùng Tam quan. Năm Bảo Đại thứ 14 (1939) tái tu tạo đền ngoài.
Theo truyền thuyết trong sách Báo cực, thần Cầu Mang được biết đến như một vị thần bảo vệ đất nước Nam, gắn liền với câu chuyện của vua Lý Thánh Tông vào năm 1069 khi ông đi đánh Chiêm Thành. Trong một trận chiến, thuyền của vua gặp phải cơn mưa lớn, gió dữ, khiến thuyền chao đảo và có nguy cơ gặp nạn. Lúc ấy, vua Lý Thánh Tông bất ngờ gặp một cô gái trẻ, khoảng 20 tuổi, sắc mặt tươi tắn như hoa đào, thân hình bạch y thướt tha. Cô gái nói: “Ta là thần cõi đất nước Nam, đã sinh sống trong cây cối và chốn mây nước lâu nay, chờ đợi cơ hội để giúp đỡ bệ hạ. Nay gặp được bệ hạ, thần xin thề giúp sức, mong bệ hạ sớm hoàn thành thắng lợi. Khi chiến thắng trở về, thần sẽ ở đây để bái yết.” Nói xong, cô gái bỗng nhiên biến mất. Vua tỉnh lại và kể lại cho các quần thần nghe, lúc này, một vị tăng quan tên Hậu Lâm đã tâu rằng thần đã nhắc đến cây cối và mây nước, xin vua cho tìm kiếm xem có cây hay vật nào có thể mang lại linh nghiệm. Sau khi tìm kiếm, người ta phát hiện một khúc gỗ rất giống hình người, màu sắc và hình dáng giống như người trong giấc mơ của vua. Vua cho đặt tên là Hậu thổ phu nhân và đặt vật này lên bàn thờ trong thuyền. Từ đó, sóng yên gió lặng, thuyền đi êm ái, và trận chiến chống lại quân Chiêm Thành diễn ra thuận lợi, quân ta giành chiến thắng vang dội. Sau khi trở về kinh thành, vua cho xây dựng một ngôi đền thờ thần tại làng An Lãng. Đến đời vua Lý Anh Tông, khi đất nước trải qua một đợt hạn hán lớn, quần thần đã xin vua lập đàn tế trời tại Nam Giao, cầu xin thần Cầu Mang giúp đỡ mưa thuận gió hòa. Quả thực, sau khi lễ tế được thực hiện, trời đã đổ mưa, nạn hạn hán được giải quyết. Từ đó, vua hạ lệnh rằng Cầu Mang thần quân sẽ bảo vệ mùa Xuân và mỗi năm trong lễ hội mùa Xuân, dân làng phải dâng cúng một con trâu bằng đất tại đền thờ. Như vậy, thần Cầu Mang, thờ tại Đền Trát Cầu, không chỉ là một biểu tượng của sự bảo vệ mà còn là một phần của truyền thuyết về nghề nông, đặc biệt là trong việc cầu xin mưa thuận gió hòa cho mùa màng bội thu.
Kiến trúc và cảnh quan
Cổng đền Trát Cầu mới được tôn tạo khoảng thời gian gần đây, theo thiết kế kiểu tam quan với ba cửa: cửa chính ở giữa và hai cửa phụ hai bên. Mái cổng được xây theo kiểu hai tầng tám mái đao cong, tạo sự cân bằng giữa âm và dương. Tầng mái trên có thiết kế nhẹ nhàng, biểu trưng cho dương, trong khi tầng mái dưới rộng và nặng nề hơn, biểu trưng cho âm. Phần mái được phân cách bởi cổ ngỗng chấn song con tiện, với tấm hoàng phi ghi ba chữ “Linh Hưng tự” ở giữa. Trên bờ nóc, mặt nguyệt với những tia sáng được đắp khéo léo, kìm bờ nóc và các góc đao đều được chạm khắc hình rồng, tạo cảm giác gần gũi và trang nghiêm cho những người đến viếng.
Tiếp theo là nhà Tả vu và Hữu vu, hai công trình đối diện nhau ở hai cánh gà bên trái sân đền. Mỗi ngôi nhà đều có cấu trúc ba gian, tường xây bằng gạch, mái đầu hồi bít đốc với tay ngai có trụ biểu đền. Trên đỉnh cột là hình bốn chim phượng tạo dáng hoa sen, các hộp đèn lồng chạm khắc tứ linh, đầu nóc được đắp hình chữ nhật. Cả hai mái đều lợp ngói ri, mái dốc tạo nên vẻ đẹp thanh thoát, truyền thống. Kiến trúc của các nhà này được xây dựng tinh xảo, với bộ vì kèo cầu quá giang, các trụ, xà, hoành đều làm từ gỗ bào trơn, đóng mộng theo kỹ thuật truyền thống.
Đại bái là công trình chính của đền, là nơi linh thiêng nhất trong khu di tích. Ngôi nhà quay về hướng Đông Nam, nền thấp chỉ có một bậc thềm dẫn vào. Mặt bằng công trình có hình chữ nhật, nền nhà lát gạch sạch sẽ. Mái trước, mái sau và hai mái vỉ ruồi ở hai hồi đều lợp ngói mũi mỏng, uốn cong như vẩy rồng, bờm dựng nhiều khúc. Mặt nguyệt tròn ở trên mái phát ra tia sáng, đầu nóc đắp tượng Kamara miệng ngậm bờ nóc. Các góc mái uốn vút như đầu thuyền, chạm khắc hình rồng. Trong lòng nhà, có hai hàng cột tròn, mỗi hàng sáu cột đặt trên kệ đá, trên đầu xẻ họng tra câu đầu. Ngoài ra, còn có bốn cột xung quanh nhà. Tất cả phần kiến trúc gỗ đều được làm mộng ngoàm, bào trơn và đóng bén theo kỹ thuật truyền thống.
Hậu cung, được chia thành ba phần rõ rệt với ba tầng cửa cấm, mỗi tầng cửa có bốn bộ vì trục làm theo kiểu chồng rường con nhị, giống như bộ vì ở nhà Đại bái. Cột gỗ trong Hậu cung chia thành bốn hàng, với các ván ngăn cách và cửa mở ra tạo thành bức ngăn cách cho từng phần cung cấm từ ngoài vào. Hệ thống ván thưng đố lụa và cửa bức bàn được thiết kế tỉ mỉ, giữ cho không gian trong cung luôn kín đáo và trang nghiêm. Phần cuối của Hậu cung là ban thờ, nơi đặt khám và ngai bài vị thần Thành Hoàng.
Hiện vật
- 12 Sắc phong.
- Những bức hoành phi câu đối gỗ cổ.
- Khám thờ và bài vị làm bằng gỗ cùng nhiều đồ thờ tự cổ.
Xếp hạng
Đền Trát Cầu được công nhận là Di tích lịch sử văn hóa cấp thành phố năm 2002.
Tài liệu tham khảo
- Đền Trát Cầu, Di tích lịchba sử – văn hóa Hà Nội.