Làng Lệ Mật
Lệ Mật là một làng cổ vốn có tên “Trù Mật”, có lẽ vì kỵ húy tên chúa Trịnh Chù (tức Trịnh Cương, 1686 – 1729) nên mới phải đổi.
Tương truyền, vua Lý Thái Tông (1028 – 1054) có một cô con gái cưng thường bơi thuyền du ngoạn trên dòng Thiên Đức (sông Đuống). Một hôm, công chúa bị đắm thuyền và mất tích, nhiều người đã lặn xuống nhưng không tìm thấy. Cuối cùng, một người xuất thân bắt rắn ở Lệ Mật tên là Hoàng Đức Trung mới đưa được xác công chúa lên bờ.
Vua ban thưởng gấm vóc, vàng bạc nhưng ông từ chối tất cả, chỉ xin cho các đồng hương sang khai khẩn vùng đất hoang phía đông-nam kinh thành Thăng Long. Được vua ưng thuận, dân Lệ Mật và mấy làng xung quanh đã di cư và biến vùng đất ven đô ấy dần dần thành 13 trang trại mà sách sử gọi là khu “Thập Tam Trại”.
Hoàng Đức Trung làm hoạn quan ở trong cung còn giúp đỡ dân làng được nhiều việc khác. Sau khi ngài mất, Lệ Mật và các làng liên quan đều lập điện thờ và suy tôn ngài là thành hoàng.
Đặc biệt, dân Lệ Mật còn phát triển nghề bắt rắn và nuôi rắn thành truyền thống kéo dài cho đến hôm nay.
Quần thể di tích đình làng Lệ Mật
Đường dẫn vào cổng đình
Từ con đường dẫn vào cổng đình, du khách tham quan cần đi qua 3 mảng di tích: Tam quan chùa Lệ Mật, giếng đình và miếu công chúa.
Giếng đình: Là giếng tự nhiên, có tên gọi Thiên Hồ Lệ (Giếng thiên tạo). Trải qua nhiều đời vẫn còn nguyên vẹn, hầu như không bị sụt lở. Xưa, cả làng Lệ Mật gánh nước giếng về ăn. Giếng đình gắn kết với nhiều giai thoại, truyền thuyết xung quanh vị thành hoàng Lệ Mật. Trong tâm thức dân gian Lệ Mật, cùng với miếu công chúa, giếng là một trong những “di tích thiêng”.
Miếu công chúa: Người được thờ trong miếu là con gái vua Lý Thái Tông (được chàng trai họ Lệ Mật vớt lên sau trận giao tranh với thủy quái). Người dân cho rằng ngôi miếu xuất hiện như một sự tri ân đối với vị Thành hoàng đang được thờ phụng trong đình. Miếu công chúa có kích thước nhỏ bé (rộng 6m2) với kết cấu kiến trúc, điêu khắc đơn giản. Nhưng điều kỳ lạ nhất là nó gắn kết chặt chẽ với một cây đa cổ thụ: một phần mái gắn sâu vào thân cây, trong khi phần mái còn lại bị rễ bao phủ.
Trên cây đa, giữa chạc ba của thân cây mọc lên một cây cọ. Dân làng và khách thăm quan đều cho rằng đây là một hiện tượng “có một không hai”. Miếu công chúa rất thiêng, còn được dân làng gọi là “miếu trình” hay “miếu chúa”, vì hàng năm vào dịp hội làng, vào khoảng 8 giờ sáng ngày 22-3 âm lịch diễn ra tục đánh cá ở giếng đình. Cá được đánh từ giếng lên, trước khi mang vào đình đều phải “trình” (đặt lên ban thờ rồi thắp hương) qua miếu công chúa. Nghe nói miếu công chúa rất thiêng, nhiều người thường tới đây thờ cúng trước ngày thi cử để cầu được may mắn suôn sẻ trong công việc và học tập.
Tam quan chùa Lệ Mật (Cổ Giao Tự): Tam quan chùa Lệ Mật có kích thước cao lớn, bề thế, với lối kết cấu 2 tầng, 8 mái. Các mảng chạm nổi trang trí bám kết dày đặc cả hai mặt trong và ngoài. So với các tam quan chùa làng khác, đây là một di tích đẹp. Có lẽ, một trong các nguyên nhân để dân làng giữ nguyên vị trí hiện nay của tam quan là vì họ không muốn phá vỡ các mảng chạm nổi trang trí hình tứ linh, bát tiên rất công phu, tinh xảo của người xưa để lại.
Đình Lệ Mật
Dáng dấp ngôi đình hiện nay mang phong cách nghệ thuật kiến trúc thời Nguyễn.
Chếch mé trước đình là một nguyệt hồ nhỏ với hàng tường hoa vây quanh. Cạnh hồ này, giữa hai hàng cây có con ngõ rộng lát gạch dẫn thẳng đến một cổng tam quan xây 2 tầng 8 mái, trên đắp các hình rồng rắn. Sau tam quan ta thấy hai nhà giải vũ 3 gian ở hai bên hòn non bộ với bức cuốn thư ở giữa làm bình phong che chắn.
Vòng qua hòn non bộ ta bước vào một sân gạch lớn dẫn đến khu vực đình trong. Giữa hai trụ biểu ta thấy có một tòa phương đình cũng xây 2 tầng 8 mái với hai nhà tả hữu mạc 5 gian ở hai bên, còn tòa đại bái ở ngay sau phương đình. Nhà đại bái rộng 7 gian 2 dĩ, đầu hồi bít đốc và hậu cung sâu 4 gian kết nối với nhau theo hình chữ “Đinh”.
Khám thờ thành hoàng
Hai gian trong cùng ở hậu cung chính là khám thờ thành hoàng với pho tượng gỗ và long ngai bài vị của ngài. Lương đình giáp với sân nhà truyền thống Lệ Mật. Toàn bộ khu vực này và ngôi chùa bên cạnh làm thành một cụm di tích rộng rãi, đồng thời còn phục vụ cho các sinh hoạt văn hóa của Lệ Mật.
Tổng quan kiến trúc
Theo người già ở làng Lệ Mật kể lại thì mảnh đất bây giờ là đình ngày xưa là chùa. Đầu thế kỷ trước các cụ đã quyết đinh rời chùa sang bên phải để xây đình. Về không gian bố cục, đình quay về hướng nam, hướng của quyền uy và hướng này cũng gắn với ước vọng của tín ngưỡng thời trước. Hệ thống nước cũng gắn liền với kiến trúc của đình.
Nghi môn
Phần tiếp theo của đình làng Lệ Mật là Nghi môn. Công trình này được xây dựng vào nửa đầu thế kỷ XX theo phong cách cổ truyền. Phần dưới của Nghi Môn theo lỗi cổng thành gồm 3 cửa, ở giữa là một cửa lớn có thể rước kiệu qua, hai bên là hai cổng nhỏ để người có thể ra vào.
Hai bên Nghi Môn là bức tưởng thấp và có 4 trụ lớn. Mỗi đỉnh trụ đều được gắn một Lân ngồi trong thế chầu vào. Trang trí mặt trong tường là tướng giữ cửa. Phần trên Nghi Môn được làm theo kiểu lầu với ba kiến trúc tách rời. Đi qua Nghi môn là một khoảng sân rộng, hai bên có nhà Giải Vũ, nơi dừng chân để soạn lễ của người dân.
Sân đình
Chính giữa sân là một bức bình phong. Mặt trong đắp Rồng cuốn thủy xung quanh có mây xanh. Tiếp theo bình phong là một sân rộng nơi diễn ra nhiều hoạt động của lễ hội. Cuối sân có một Nghi Môn nội với kiến trúc đơn giản ngăn cách giữa sinh hoạt động đồng với chốn linh thiêng.