Giới thiệu chung
Khu di tích Quận Vân (xã Vân Tảo, Thường Tín, Hà Nội) được giới khảo cổ đánh giá là một trong hai lăng mộ bằng đá đồ sộ nhất Việt Nam. Lăng Quận Vân được xây dựng từ năm 1734, bị trận lũ lịch sử năm 1914 nhấn chìm. Sau thời điểm đó, người ta vẫn nghĩ khu lăng mộ đã bị cơn lũ cuốn đi. Thế nhưng, qua nhiều năm bị quên lãng, khu lăng mộ ẩn sâu dưới lòng đất bất ngờ được phát lộ vào năm 1985, trong khi người dân xã Vân Tảo cải tạo lô đất có chứa di tích này để canh tác.
Đại giang Quận công Đỗ Bá Phẩm
Quận công Đại giang Đỗ Bá Phẩm là một trong “tứ trụ triều đình” thời chúa Trịnh Cương, Trịnh Giang nhà Lê Trung Hưng (1533 – 1789). Ông quê gốc ở làng Vân La, nay là xã Hồng Vân (huyện Thường Tín), vì thế, nhân dân quen gọi là Quận Vân. Ông từng giữ chức trấn thủ trấn Sơn Nam. Ông đã được chúa Trịnh Cương giao cho làm chức tư giảng, chuyên dạy dỗ thế tử Trịnh Giang. Năm 1732 thế tử Trịnh Giang lên ngôi chúa, là người hôn ám, nhu nhược, không kham nổi việc nước. Trịnh Giang đã giáng vua Lê Duy Phường xuống làm Hôn đức Công, giết các đại thần Nguyễn Công Hãng, Lê Anh Tuấn, Trương Nhưng. Năm 1734, Đỗ Bá Phẩm bị chúa Trịnh Giang phế chức trấn thủ Nam Sơn.
Năm 1733, thấy thế đất ở đây hợp phong thủy, ông cho người chở đá từ Đông Triều (Quảng Ninh) về xây lăng làm nơi an nghỉ vĩnh hằng. Nhưng lăng chưa kịp hoàn thiện thì có gian thần trong triều dèm pha, cho rằng ông mưu đồ làm phản, nên Quận công bị đày ra Quảng Ninh rồi viên tịch ở đó.
Tổng quan kiến trúc
Lăng mộ nằm giữa một vùng đất rộng lớn, bốn bên là ruộng đồng bát ngát. Toàn bộ khu Lăng rộng khoảng 4 sào, chia làm ba phần: cổng lăng, khu sinh phần, nhà mộ.
Đi từ ngoài cổng vào là tượng hai chú chó đeo vòng lục lạc, ngồi canh cổng. Tiếp đến là hai pho tượng võ sĩ lực lưỡng, được chạm khắc theo phương pháp tả thực, với đường nét và hình khối tinh xảo, cân đối. Tượng trông giống như hai võ sĩ thật, tay cầm đại đao canh giấc ngủ cho người trong mộ. Hai bên đường vào là hàng voi và ngựa chiến được tạc bằng đá nguyên khối. Ngựa đứng, voi phủ phục rất uy nghiêm.
Chiếc ngai bằng đá ở giữa lăng mộ làm người ta phải chú ý hơn cả. Hình một chiếc ghế đá có tay đầu rồng ấy là hiện vật quý giá và tinh xảo nhất mà người xưa để lại. Trước ngai là bệ hương và phía dưới là sập thờ cũng hoàn toàn làm từ đá.
Nhà văn bia 4 cột ở 4 góc thẳng tăm tắp là trụ đỡ cho mái vòm đá cong. Mỗi đường điêu khắc còn hiển hiện rõ rệt, không một nét mờ. Chính giữa là bia văn đã đen màu hương khói càng làm những nét chữ Hán nổi bật, bóng hình trên nền đá xanh.
Khu sinh phần
Khu sinh phần cách cổng Lăng khoảng 15m. Đây là trung tâm giá trị nghệ thuật của khu Lăng. Hai bên đường thần đạo vào khu sinh phần, mỗi bên đặt một hương án rộng 0,60cm x 0,40cm, mặt hương án được bào soi và khắc gờ chỉ công phu. Đặt trên mỗi thân hương án là một khối đá hình tứ giác, chạm trổ “Long mã hý cầu”. Đối xứng với hai hương án trước mặt võ sĩ, ngay trên trục đường thần đạo là một hương án quy mô to hơn. Hương án này gọi là hương án tiền, cao khoảng 1,5m, chân, thân, mặt lắp ráp với nhau bằng mộng. Mặt hướng án rộng 1,22m x 1,65m. Bốn góc chạm hoa văn. Thân hương án khắc “Lưỡng nghệ châu lư hương” cùng các tiểu tiết trang trí là đài sen, mây, lửa,… Bố cục chặt chẽ, sinh động, nét chạm khắc tinh xảo mặc dù đó là đá núi.
Cách hương án tiền gần 4m, mỗi bên có một tượng “Voi phục“. Các nhà khảo cổ học đánh giá đôi tượng voi này là một trường hợp hiếm thấy ở nước ta. Kích thước bằng voi thật, dáng đẹp và cân xứng. Với một khối đá khổng lồ, chất liệu thuộc loại rắn, rất khó khăn trong tạo tác, thế mà các nghệ nhân xưa đã tạo ra hai tác phẩm nghệ thuật, hai con voi giống nhau gần như đúc từ một khuôn.
Sau cụm tượng voi là tượng ngựa và tượng chó, cũng có tỷ lệ như con vật thật, chầu trước hai hương án đặt liền nhau, gọi là hương án trung, cái sau cao hơn cái trước. Cái trước cao 1,25m, mặt rộng 1,5m x 2,25m, cái sau cao 1,6m, mặt rộng 1,4m x 2,8m. Cả hai hương án trung đều là những khối đá nguyên tạo thành, xung quanh mặt hương án sau đặt một chiếc ngai giống những chiếc ngai làm bằng gốc thờ trong hậu cung các đình làm để thờ bài vị thành hoàng. Ngai được chạm lộng và chạm bóng khá sắc sảo, không thua kém gì chạm khắc trên gỗ.
Nhà bia, nhà mộ
Nhà bia là di vật kết thúc khu sinh phần. Ngôi nhà bia có bốn cột, đỡ lấy tấm mái cong bốn phía. Nóc nhà bia có tháp cao. Toàn nhà bia cao 4m, gồm 20 chi tiết lắp ghép với nhau hoàn toàn bằng mộng, không hề sử dụng một chất kết dính nào. Ngôi nhà bia đã trải qua mấy trăm năm, mưa gió, nước lũ, sa bồi mà vẫn không hề bị hư hỏng. Nhà bia có một cụm di vật gồm: sập và tượng có kích thước 2,55m x 1,85m, chiếu hoa cỡ nhất trải còn chưa kín.
Đôi Nghê chầu hai cánh nhà bia, mồn ngậm hạt ngọc, đầu và mình được khắc những hình văn xoắn, cổ đeo vòng nhạc, hình dáng khỏe khoắn và sinh động. Nghê bên trái đặt chân lên nghê con, nghê bên phải đặt chân lên quả cầu.
Bên trong nhà bia có một tấm bia cỡ lớn, cao 2,15m, rộng 1,25m, dày 0,42m được đựng tháng 11 năm 1733 (Long Đức thứ 2). Mặt trước, phần trái bia có dòng chữ lớn “Đỗ phụ quốc thần Từ đường bi ký“, ghi lại công đức ba đời của Quận công Đỗ Bá Phẩm (Quận Vân). Bài văn bia do Thanh Dụ trị sự, Giám sinh Hoàng Sướng soạn. Mặt sau bia không thấy ghi chép gì. Thông thường mặt sau bia thường được ghi ngày giỗ. Có giả thiết cho là Quận công Đỗ Bá Phẩm bị chúa Trịnh bức tử. Chưa thấy có sử sách nào ghi chép điều này.
Nhà mộ ở ngay sau nhà bia, hình mui rùa nhưng có chóp đỉnh và hình bốn mái. Phần thân mộ nằm chìm dưới lòng đất, vẫn chưa được khai quật để làm sáng tỏ một truyền thuyết của dân làng cho rằng nhà mộ có đường hầm vào, có hệ thống tự sập…
Tổng kết
Lăng đá Quận Vân, với gần 30 di vật được tạo tác bằng các khối đá núi đồ sộ, mỗi di vật là một tác phẩm nghệ thuật điêu khắc độc đáo, là minh chứng về khả năng tư duy nghệ thuật, trình độ thẩm mỹ và tài năng sáng tạo của tổ tiên ta xưa gắn liền với vị quận công Đô đốc Đỗ Bá Phẩm. Ông là người học hành giỏi dang văn tài võ lược, ông đã từng chỉ huy dẹp giặc phía nam và có nhiều chiến tích. Có thể nói đây chính là một di tích hội tụ đủ những giá trị truyền thống, văn hóa lịch sử của người dân đất Việt.