Quần thể di tích chùa Trầm (Chương Mỹ, Hà Nội)

Quần thể di tích chùa Trầm (Chương Mỹ, Hà Nội)

Thông tin cơ bản

Tên gọi và vị trí địa lý

Quần thể di tích và danh thắng chùa Trầm nằm ở khu vực núi Trầm, thôn Long Châu, huyện Chương Mỹ, cách trung tâm Thành phố Hà Nội khoảng 25km về phía tây. Nơi đây gồm những địa điểm lịch sử, văn hoá, kiến trúc và danh lam thắng cảnh: chùa Trầm, chùa Vô Vi, chùa Hang.

Lịch sử và nhân vật

  • Lược sử

Theo Đại Nam nhất thống chí mô tả giữa đất bằng nổi lên mấy ngọn núi đá cao chót vót, dưới có động, trên có chùa Vô Vi (xây dựng năm 968), núi nước quanh nhau, xưa vua Lê dựng hành cung ở đây, đào hồ ven núi để tiện đi thuyền, vì thế gọi là Long Châu. Trên núi có đá âm, đá dương, tương truyền khi nào đá dương kêu thì trời nắng, đá âm kêu thì trời mưa. Chu vi núi Trầm khoảng 8 vạn mét và ngọn núi cao hơn 400 mét.

Năm 1516 vua Lê Chiêu Tông cho dựng cung điện ở khu núi Trầm, vua đã cho khai sông suối quanh núi để ngự thuyền rồng ngắm cảnh, tạo lên cảnh sơn thuỷ hữu tình, kỳ sơn thuỷ tú. 

Năm 1536, vua cho dựng chùa Trầm (khi đó tên là chùa Hang) trong động Long Tiên dưới chân Tử Sơn Trầm

Năm Chính Hòa thứ 17 (1696), vua Lê Hy Tông sai thợ đục, tạc 48 pho tượng đá để thờ trong hang động.

Năm 1893, khi Thống đốc Hà Đông Hoàng Trọng Phu xin danh thắng này về quản lý đã đưa chùa Hang lên sườn núi xây dựng lại gọi là chùa Trầm.

Ngày 20/12/1946, tại chùa Trầm, Đài Tiếng nói Việt Nam đã phát đi lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chủ tịch.

  • Truyện Trâu Canh ở núi Tử Trầm

Tại phía Tây đất Tử Trầm, huyện Yên Sơn (nay là núi Trầm, huyện Chương Mỹ, Hà Nội) có hơn mười ngọn núi đá chạy dài gần một dặm, phong cảnh thanh tú đáng yêu. Bên trong có một cái động đá, bên dưới có chùa, tiền Thánh Vương lập cung ở đó, thường đến chơi luôn và đổi tên là xã Phụng Châu. Ở phía đông núi có một hòn đá nhô lên, rất giống hình con cóc tía.

Tương truyền xã ấy có một người tên là Trâu Canh nhà nghèo, phải đi làm thuê kiếm ăn. Một hôm, ông đang nhổ mạ ở khe núi chợ có một chú khách Trung Quốc đi qua nói rằng: Tôi có một ngôi đất tốt, nếu có ai xin tôi sẽ cho ngay. Ông nghe thấy khách nói, liền bỏ mà chạy đến trước mặt vái chào và mời về nhà.

Ông chỉ chuẩn bị được một niêu cơm bé đem ra cho khách ăn và nói với khách rằng: May mắn được gặp ông, thế là nhà tôi có phúc. Chỉ vì nghèo túng, nên bữa ăn quá đạm bạc. Nếu ông cho tôi một ngôi phúc địa, đời sau phát đạt, không bao giờ chúng tôi dám quên ơn.

Khách thấy ông thành khẩn, bèn dẫn ông đến chỗ con cóc tía bên cạnh núi chỉ vào bảo ông rằng: Chỗ đất này rất đẹp nếu làm nhà ở thì tất sẽ giàu sang. Nhưng sau khi đã được gần vua chúa rồi thì phải dời nhà đi chỗ khác ngay chứ không nên ở lại dù chỉ một ngày.

Ông theo lời khách làm gian nhà tranh chỗ đó để ở, được ba năm. Bấy giờ trong làng có tục lệ đánh cá. Ao cá ở bên cạnh núi trước cửa nhà ông dài rộng mỗi bề độ vài trượng. Dân làng đem dó và lưới xuống ao đánh cá. Ông ở dưới ao lấy dây buột đó cá vào người. Dây buộc tự nhiên đứt ông phải leo lên bờ lấy một đoạn dây mây quấn vào ngang thắt lưng thay dây cũ. Bỗng thấy dương vật cương lên, cứng rắn lạ thường. Ông chỉ có một chiếc khố rách, sợ không che đậy được nên phải đứng ở dưới ao, không dám lên bờ. Bấy giờ dân làng đã lục tục kéo nhau về, chỉ còn một mình ông ở lại.

Sau mẹ ông đến tìm, thấy một mình ông ở dưới nước, bèn quở mắng ông sao lại về chậm. Ông cởi đó cá ra đưa cho mẹ đem về, rồi cởi dây mây ở ngang thắt lưng ra, thì thấy dương vật dần dần xìu nhỏ lại và mềm nhũn ra như thường.

Sau khi ông về nhà, mẹ ông hỏi vì cớ gì mà phải ở lại dưới ao. Ông cứ thực thưa với mẹ. Mẹ ông bèn lấy dây mây phơi khô để lên gác bếp rồi thỉnh thoảng sai ông lấy dây ấy đeo thử vào người thì thấy dương vật cương cứng. Lần nào cũng hiệu nghiệm như thế.

Bấy giờ vua Trần Dụ Tông bị bệnh liệt dương, các thầy thuốc chữa mãi không khỏi. Vua cho sứ giả đi rao khắp trong nước, hứa người nào chữa khỏi, thì vua sẽ cho ăn một nửa dân lộc thiên hạ.

Sứ giả đến làng ông. Mẹ ông gọi sứ giả vào hỏi: Liệt dương là bệnh gì ? Sứ giả cứ thực nói cho bà biết. Bà nói: Nhà tôi có một vật có thể chữa khỏi được cho vua. Rồi hai mẹ con đem dây mây theo sứ giả vào Kinh dâng vua. Vua đeo dây mây vào, quả nhiên dương vật hoạt động trở lại, sau sinh được hai Hoàng tử.

Vua cho ông là thần y bèn lưu lại ông ở trong cung để trông nom thuốc men cho vua, vua ban thưởng rất hậu và sủng ái hơn tất cả mọi người.

Từ khi được Vua sủng ái, ông quên mất lời dặn chủa chú Khách, không dỡ nhà đem đi chỗ khác. Sau con ông thông dâm với cung nữ. Việc bị phát giác, con ông bị tử hình, còn ông thì bị đuổi về. Gia tư điền sản bị tịch thu hết, ông lại bị đói rét như ngày trước.

Chỗ nhà ông ở phía trước có mấy mẫu ruộng cao hình giống như chiếc bàn dao cắt thuốc, cho nên nổi tiếng về nghề làm thuốc. Nhà ở cạnh núi, mỗi khi mặt trăng tà chiếu, bóng núi đổ xuống, trông như con cóc ở trên nóc nhà, còn người thì như đang ngồi tại cung trăng, cho nên được gần vua chúa, ra vào nơi cung cấm. Chỉ hiềm nhà ở cạnh núi, địa thế bức bách, phía trước lại hướng về kiếp sơn (?), đi lại vô định, cho nên giàu sang không được lâu.[1]

Kiến Trúc và cảnh quan

Chùa Trầm

Chùa Trầm nằm trên một khu đất bằng phẳng, rộng rãi dưới chân núi, xung quanh được bao bọc bởi những rừng cây xanh mát và bãi cỏ mềm mại, tạo thành một cảnh quan thiên nhiên trong lành, thoáng đãng. Lối dẫn vào chùa được lát đá, từ ngoài cổng vào tận sân chùa. Đặc biệt, hai bên lối đi là những hàng cây xanh cao lớn, rợp bóng mát quanh năm, mang đến cho người viếng cảm giác thư thái và yên bình ngay từ khi bước chân vào. Chùa hướng mặt ra dòng sông Đáy, là một ngôi chùa cổ kính nổi bật trong khu vực, với kiến trúc mang đậm ảnh hưởng truyền thống Phật giáo Bắc Bộ, hòa quyện giữa thiên nhiên và nghệ thuật xây dựng độc đáo. Phần lớn công trình được xây dựng dựa trên địa thế tự nhiên của núi đá vôi, tạo nên sự hòa hợp giữa kiến trúc và cảnh quan thiên nhiên, tạo ra một không gian tôn nghiêm và thanh bình.

Tam Quan của chùa Trầm được xây dựng bằng đá vững chãi, là cổng chính dẫn vào khuôn viên chùa. Kiến trúc của Tam Quan mang đậm phong cách cổ điển với mái vòm cong vút, tạo cảm giác như bao bọc, bảo vệ không gian tôn nghiêm bên trong. Các cột đá lớn được chạm khắc hoa văn tinh xảo, thể hiện sự kỳ công và tài hoa của các nghệ nhân xưa. Những hoa văn này không chỉ có giá trị nghệ thuật cao mà còn chứa đựng ý nghĩa sâu sắc về văn hóa, tín ngưỡng Phật giáo.

Tiền Đường của chùa Trầm được xây dựng với 5 gian chính, mỗi gian được nâng đỡ bởi những cột đá lớn vững chắc, tạo nên một không gian rộng rãi và thoáng đãng. Các cột đá này được tạc từ đá vôi, một chất liệu có sẵn tại khu vực núi Trầm, mang lại sự vững chãi, trường tồn theo thời gian. Bên trong Tiền Đường là Thượng Điện, nơi thờ Đức Phật Thích Ca, Quán Thế Âm Bồ Tát, và các vị Phật, Bồ Tát, A La Hán, cùng các vị hộ pháp. Chính điện được làm chủ yếu bằng gỗ với những mái ngói cổ kính uốn cong, mang đậm dấu ấn kiến trúc Phật giáo Bắc Bộ. Mái ngói được lợp theo kiểu cổ, từng viên ngói mịn màng và chồng lớp cẩn thận, tạo nên một mái ngói vững vàng nhưng thanh thoát.

Không gian trong chính điện rất trang nghiêm, được trang trí với các họa tiết hoa văn rồng phượng tinh xảo trên trần và cột gỗ, mang lại vẻ uy nghi, linh thiêng cho không gian thờ tự. Các tượng Phật và Bồ Tát được chế tác tỉ mỉ, phần lớn được làm từ gỗ hoặc đá, với những đường nét mềm mại nhưng đầy thần thái, thể hiện sự thanh tịnh, từ bi của các bậc giác ngộ. Ánh sáng trong chính điện chủ yếu là ánh sáng tự nhiên từ những ô cửa nhỏ, kết hợp với ánh đèn từ các cây nến, tạo nên một không gian yên tĩnh và huyền bí.

Phía sau Thượng Điện là Nhà Tổ, nơi thờ các bậc Tổ sư và các vị Tăng, Ni có công với chùa. Đây là không gian để các Phật tử và khách thập phương tới hành hương, chiêm bái và cầu nguyện.

Chùa Trầm còn nổi bật với các tượng thờ bằng đá, được đục tạc tỉ mỉ, đặc biệt là những tượng Phật, Bồ Tát, A La Hán trong các hang động phía sau chính điện, tạo nên một không gian thờ cúng đa dạng, phong phú. Với sự kết hợp hài hòa giữa kiến trúc truyền thống và thiên nhiên cùng những giá trị văn hóa đặc sắc, Chùa Trầm không chỉ là một nơi linh thiêng để thờ cúng mà còn là một công trình nghệ thuật đậm đà bản sắc dân tộc, thu hút du khách đến chiêm bái và tìm hiểu.

Chùa Vô Vi

Chùa Vô Vi, một ngôi chùa cổ kính và linh thiêng, tọa lạc trên đỉnh ngọn núi đá độc lập của dãy Tử Trầm, cao khoảng 300 mét so với mặt đường. Chùa nằm trong một khu vực hoang sơ, bao quanh bởi những 12 cây đại thụ lớn, tạo thành một không gian thanh tịnh, thoáng đãng và mát mẻ, đồng thời mang đến một cảm giác kỳ bí và huyền ảo cho những ai lần đầu tiên đến thăm.

Con đường dẫn lên chùa được lát bằng gạch, đá với một lớp rêu phong bao phủ, phản ánh sự lâu đời của ngôi chùa. Để lên đến chùa, phải vượt qua 100 bậc thang, với mỗi bước đi không chỉ là một thử thách thể lực mà còn là giải tỏa, tự tại trong tâm hồn bước đến cửa thiền môn.

Theo truyền thuyết, chùa Vô Vi được một vị tướng thời Đinh (thế kỷ 10) xây dựng khi ông về đây ở ẩn tìm kiếm sự thanh tịnh sau những năm tháng dấn thân trong chốn quan trường. Chùa được xây dựng vào năm 968 và ban đầu mang tên Phúc Trù tự. Trong suốt các triều đại, chùa đã trải qua nhiều lần thay đổi tên gọi và địa điểm. Vào thời Trần, chùa được đổi tên thành Trai Linh tự và được dời lên lưng chừng núi để tiện cho việc thờ tự và chiêm bái. Năm Hồng Thuận thứ 6 (1514), dưới triều đại Hậu Lê, chùa được đổi tên thành Vô Vi tự và được di chuyển lên đỉnh núi như hiện nay. 

Chùa chính Vô Vi có diện tích nhỏ, chỉ khoảng hơn 10m², nhưng lại mang một vẻ đẹp cổ kính, giản dị nhưng vô cùng trang nghiêm. Kiến trúc của chùa không tuân theo quy tắc thông thường của các ngôi chùa lớn, không theo dạng hình chữ Đinh hay Nội công ngoại quốc, mà chỉ có một gian duy nhất. Mái chùa được lợp ngói mũi hài, một loại ngói có hình dáng cong vút, đặc trưng của kiến trúc cổ truyền Bắc Bộ. Những chiếc ngói này được xếp chồng lên nhau theo một quy cách rất tinh xảo, tạo nên mái vòm bảo vệ không gian bên trong. Các cột và xà trong chùa được làm từ gỗ và đá, với các chi tiết đơn giản nhưng chắc chắn, mang lại một không gian trang nghiêm và bền vững qua thời gian. Cách thiết kế này thể hiện sự kết hợp hoàn hảo giữa thiên nhiên và con người, giữa đá, gỗ và không gian linh thiêng của Phật giáo.

Chùa chỉ có ban Tam Bảo là nơi thờ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, các thánh, cùng với hai vị hộ pháp bảo vệ cho chùa. Các tượng thờ được chế tác tỉ mỉ, với kích thước nhỏ gọn, vừa vặn với không gian khiêm tốn của chùa. Điều này tạo nên một sự hài hòa, tránh sự rối mắt nhưng lại đầy đủ linh thiêng.

Bên trái chùa có một lối nhỏ dẫn lên lầu Nghênh Phong, nơi du khách có thể đứng đón gió từ bốn phương. Từ đây, người viếng có thể quan sát được toàn bộ cảnh vật xung quanh, với một tầm nhìn rộng lớn, bao quát cả khu vực núi Trầm và các vùng lân cận. Lầu Nghênh Phong không chỉ là nơi để thưởng ngoạn cảnh sắc mà còn là nơi đón nhận những làn gió nhẹ nhàng, giúp tâm hồn con người trở nên thanh thản, yên bình hơn.

Chùa Vô Vi còn lưu giữ một số di vật quý giá, đặc biệt là các bức vẽ Thập Điện Diêm Vương cổ trên hai bức tường của chùa. Đây là những tác phẩm nghệ thuật mang đậm dấu ấn của truyền thống Phật giáo, mô tả các vị Diêm Vương cai quản các cõi âm. Những bức tranh này đã tồn tại qua nhiều thế kỷ và thường xuyên được người dân tô vẽ lại theo các nét vẽ nguyên bản.

Ngoài ra, chùa còn sở hữu một trụ cột gỗ cổ chưa xác định được niên đại, cùng với một quả chuông đồng có niên đại từ 1814. Quả chuông này, dù đã trải qua nhiều thăng trầm của lịch sử, vẫn là một biểu tượng linh thiêng, mỗi lần ngân vang là tín hiệu mời gọi các Phật tử và du khách tìm về với những điều thiện lành. Đặc biệt, trong khuôn viên chùa còn có nhiều bia đá, nổi bật trong đó là bia khắc hai bài thơ “Đề chùa Vô Vi” và “Trùng phỏng Vô Vi tự” của Trần Văn Tăng, một vị tướng thời Hậu Lê. Ông đã gác kiếm, xuất gia và là người có công lớn trong việc đưa chùa Vô Vi lên đỉnh núi. Những bài thơ này không chỉ phản ánh lòng tôn kính Phật pháp mà còn ghi lại sự đóng góp của ông đối với sự phát triển của ngôi chùa. Những di vật này đã góp phần khẳng định giá trị lịch sử, văn hóa của chùa Vô Vi và tạo nên một phần không thể thiếu trong kho tàng văn hóa, tín ngưỡng của nhân dân.

Chùa Vô Vi, với sự kết hợp hài hòa giữa kiến trúc và thiên nhiên, cùng với những di tích lịch sử, đã trở thành một địa điểm linh thiêng, thu hút không chỉ những tín đồ Phật giáo mà còn là một điểm đến lý tưởng cho những ai yêu thích tìm hiểu về lịch sử và văn hóa dân tộc.

Chùa Hang

Chùa Hang được xây dựng trong động Long Tiên dưới chân Tử Trầm Sơn, nằm cách chùa chính không xa, về phía bên trái. Mặc dù cửa hang chỉ rộng hơn 7 mét và cao trên 3 mét, bên trong lại là một hệ thống hang động liên hoàn rộng lớn và hiếm thấy, với những vách đá tự nhiên, kỳ vĩ. Không gian trong động mở rộng, khiến du khách không khỏi ngạc nhiên bởi vẻ đẹp huyền bí của nó.

Trong động Long Tiên, nơi đặt chùa Hang, bàn thờ Phật được đặt trang trọng, với những pho tượng đá được tạc công phu, mang đậm dấu ấn nghệ thuật Phật giáo. Chùa Hang không chỉ là nơi thờ Phật, mà còn là một công trình tâm linh vĩ đại, nơi lưu giữ nhiều tượng Phật và các tượng tiên, hộ pháp được khắc họa sinh động và tỉ mỉ, nằm rải rác khắp các lối đi trong động. Những tượng Phật này đều được tạc từ đá tự nhiên, thể hiện sự kết hợp giữa sự kỳ vĩ của thiên nhiên và lòng tôn kính vô hạn đối với các bậc thánh hiền.

Bên cạnh các tượng Phật, 15 tác phẩm thơ văn khắc trên vách động của chùa Hang là một di sản văn hóa đặc biệt, có giá trị về mặt văn học. Những tác phẩm này không chỉ vịnh cảnh chùa mà còn chứa đựng những suy tư, cảm xúc của những thi nhân khi đến chiêm bái và cảm nhận sự linh thiêng của nơi đây. Những bài thơ, câu văn khắc trên đá trở thành một phần không thể thiếu trong lịch sử của chùa Hang, phản ánh sự kết hợp giữa tín ngưỡng tôn thờ Phật giáo và văn hóa dân tộc.

Trong động có hai lối đi đặc biệt mà dân gian gọi là “đường lên Trời” và “đường xuống Âm phủ”. Lối đi lên đỉnh núi, được gọi là đường lên Trời, không chỉ là một con đường đưa du khách lên đỉnh cao của chùa mà còn là một hành trình tâm linh, như thể mỗi bước đi là một bước tiến gần hơn tới cõi thiên thu. Ngược lại, đường xuống Âm phủ là con đường dẫn xuống những hang sâu, tối tăm, tượng trưng cho sự giao thoa giữa cõi âm và cõi dương, là nơi mà những tín ngưỡng xưa được gợi nhớ về thế giới bên kia.

Chùa Hang hiện vẫn lưu giữ nhiều hiện vật cổ quý giá, có giá trị văn hóa và lịch sử. Trong động, có những khánh đá, chuông đá, hình rồng, hình chim, hoa sen đá… được tạc khắc rất sinh động và tinh xảo, thể hiện tài năng và sự khéo léo của các nghệ nhân xưa. Những hình ảnh này không chỉ mang giá trị nghệ thuật mà còn phản ánh tín ngưỡng thờ cúng trong Phật giáo, như là sự kết nối giữa thiên nhiên và thế giới tâm linh. Một trong những hiện vật đặc biệt là cây Hương đá cổ, được chạm khắc tinh vi, với niên đại năm Chính Hòa 17 (1696). 

Chùa Hang không chỉ là một ngôi chùa thờ Phật mà còn là một di tích văn hóa, lịch sử quan trọng, lưu giữ nhiều hiện vật cổ, những tác phẩm thơ, văn có giá trị, cùng những lối đi huyền bí. Những yếu tố này kết hợp với không gian tự nhiên hùng vĩ tạo nên một địa điểm linh thiêng, thu hút không chỉ các Phật tử mà còn là những người yêu thích khám phá văn hóa, lịch sử. Chùa Hang chính là một minh chứng sống động cho sự giao thoa giữa tín ngưỡng Phật giáo, văn hóa dân gian và nghệ thuật tạc đá độc đáo.

Địa chỉ đỏ cách mạng

Chùa Trầm không chỉ là một ngôi chùa nổi tiếng với vẻ đẹp thiêng liêng, mà còn là một chứng nhân sống động của lịch sử đấu tranh giành độc lập dân tộc trong thế kỷ XX. Một sự kiện đặc biệt mà ít ai biết đến là, trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp, chùa Trầm chính là nơi Đài Tiếng nói Việt Nam rời trung tâm Hà Nội để tiếp tục phát thanh, phục vụ công tác tuyên truyền, cổ vũ tinh thần toàn quốc kháng chiến.

Vào sáng ngày 20/12/1946, từ chính ngôi chùa này, Đài Tiếng nói Việt Nam đã phát đi Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Lời kêu gọi ấy như một mệnh lệnh thiêng liêng, thúc giục toàn thể quân dân Thủ đô và nhân dân cả nước đứng lên chống lại sự xâm lược của thực dân Pháp. Cuộc kháng chiến kéo dài suốt những năm tháng gian khổ nhưng kết thúc bằng chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy vào năm 1954, một chiến thắng vang dội không chỉ ở Việt Nam mà còn làm chấn động cả thế giới.

Không chỉ có vai trò quan trọng trong chiến tranh, chùa Trầm còn là nơi lưu giữ nhiều kỷ niệm quý giá với Chủ tịch Hồ Chí Minh. Vào đêm giao thừa Tết Đinh Hợi năm 1947, Bác Hồ đã đến Đài Tiếng nói Việt Nam tại chùa Trầm để gửi lời chúc Tết đến đồng bào cả nước, đồng thời động viên chiến sĩ đang ở tuyến đầu. Trong dịp này, Bác đã viết một câu đối bằng chữ Hán gửi tặng nhà chùa: “Cao sơn hữu ý thiên niên bút / Lưu thủy vô thanh vạn cổ cầm”. Câu đối mang ý nghĩa sâu sắc về sự bền vững của đất nước, ngọn núi vĩ đại luôn ghi lại dấu ấn lịch sử, còn dòng nước dù lặng lẽ vẫn không ngừng chảy qua bao thế hệ.

Ngoài ra, trên giấy điều, Bác Hồ cũng đã viết tám chữ gửi sư cụ chùa Trầm để dâng lên bàn thờ Phật: “Kháng chiến tất thắng, kiến quốc tất thành” – một lời khẳng định mạnh mẽ về niềm tin vào thắng lợi của cuộc kháng chiến và sự thành công trong công cuộc xây dựng đất nước.

Sau chiến thắng lịch sử và khi miền Bắc giải phóng vào năm 1957, Bác Hồ đã về thăm chùa Trầm, thể hiện sự quan tâm sâu sắc đến những người dân nơi đây. Đặc biệt, vào 13/7/1966, trong chuyến thăm đơn vị bộ đội phòng không không quân đóng quân tại chùa Trầm, Bác Hồ đã đến thăm và động viên các chiến sĩ, gửi gắm niềm tin và sức mạnh cho thế hệ chiến sĩ mới.

Chùa Trầm, với sự linh thiêng và những dấu ấn lịch sử quan trọng, không chỉ là nơi chiêm bái của Phật tử mà còn là một phần không thể tách rời trong hành trình đấu tranh giành lại độc lập và tự do cho dân tộc, một chứng tích lịch sử mang đậm tình cảm với nhân dân và các chiến sĩ.

Các tác phẩm thơ ca viết về núi Trầm

  • Du Tử Trầm sơn – Thượng thư bộ Lại Nguyễn Tư Giản (1823 – 1890)

Nguyên văn

“南來喝江水,

西上紫沉山。

一氣浮雲外,

雙笻亂石間。

聞鐘如有悟,

倚檻未知還。

不見河王殿,

巖花滿目斑。”

Dịch nghĩa

“Từ phía nam tới sông Hát,

Từ phía tây lên núi Tử Trầm.

Một luồng khí ngoài cả mây trôi,

Đôi hàng trúc mọc xen với đá.

Nghe tiếng chuông như có điều ngộ đạo,

Tựa xe mà chưa muốn về.

Chẳng thấy điện Hà vương ở đâu,

Chỉ thấy hoa núi đầy trước mắt.”[2]

  • Đề chùa Vô Vi – Trần Văn Tang

“Vắt vẻo sườn non Trạo,

Lơ thơ mấy ngọn chùa.

Hỏi ai là chủ đó?

Nào bán tớ xin mua!”[3]

  • Trùng phỏng Vô Vi tự – Trần Văn Tang

“Bên này Thiên Trúc nọ Bồng Lai,

Đem cảnh thanh u đặt giữa trời.

Trang điểm đã nhờ ơn Đại Sĩ;

Độ trì còn đội đức Như Lai.

Mượn nền đá phẳng đề năm vận,

Sẵn quả chuông kêu đấm mấy hồi.

Cảnh ví mến người, người lại lại,

Đã vô vi khéo cũng lôi thôi.”[4]

Sự kiện và lễ hội

Hàng năm, vào ngày mùng 2 tháng 2 Âm lịch, người dân địa phương lại long trọng tổ chức Lễ hội chùa Trầm, một dịp lễ quan trọng để cầu mong mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu và cuộc sống an lành, thịnh vượng. Lễ hội này không chỉ là một dịp để tưởng nhớ Phật, mà còn là dịp để cộng đồng quây quần, gắn kết với nhau qua những hoạt động văn hóa đặc sắc.

Lễ hội chùa Trầm xưa mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc, với vô vàn các trò chơi dân gian hấp dẫn như đu tre, rối nước, cờ tướng, leo cột mỡ, đánh vật, và chọi gà. Những trò chơi này không chỉ mang lại niềm vui, mà còn thể hiện sự khéo léo, dẻo dai và tinh thần đoàn kết của người dân trong cộng đồng.

Điều đặc biệt là trong những năm gần đây, lễ hội chùa Trầm còn gắn liền với một nghi thức mang đậm giá trị lịch sử và tình cảm dân tộc: lễ rước ảnh Bác Hồ. Hành động này là sự tưởng nhớ và tri ân những lần Bác Hồ đã đến thăm chùa, thể hiện lòng kính trọng đối với Người, cũng như khắc ghi những kỷ niệm sâu sắc của dân tộc. Những người dân trong làng, với tình cảm thiêng liêng, đã tổ chức lễ rước ảnh Bác, tạo nên một không khí trang trọng và xúc động, nhắc nhớ đến những dấu ấn quan trọng trong cuộc đời cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, người đã dành tình cảm đặc biệt cho nơi này.

Xếp hạng

Quần thể di tích và danh thắng chùa Trầm đã được Bộ Văn hóa và Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao – Du lịch) xếp hạng là Di tích lịch sử, kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia năm 1964.

Chú thích

[1] Vũ Phương Đề, Công Dư Tiệp Ký tiền biên, Đoàn Thăng dịch, Nxb Văn học, Hà Nội, 2001.

[2] Dương Văn Hà, “Khảo cứu văn bản Thạch Nông thi tập của Nguyễn Tư Giản”, Luận văn thạc sĩ ngành Hán Nôm, Trường Đại  học Khoa học Xã hội và Nhân văn, 2018.

[3] Dương Quảng Hàm, “Đề chùa Vô Vi”, Việt Nam văn học sử yếu, Trung tâm học liệu xuất bản, 1773.

[4] Bài thơ khắc trên bia đá tại chùa Vô Vi do nhà nghiên cứu Châu Hải Đường công bố (10/2018).

Tài liệu tham khảo

  1. Quốc sử quán triều Nguyễn (2006), Đại Nam nhất thống chí, Viện sử học dịch, Nxb Thuận Hóa.
  2. Đoàn Thăng dịch (2001), Công Dư Tiệp Ký tiền biên, Nxb Văn học, Hà Nội.
  3. Dương Văn Hà (2018), “Khảo cứu văn bản Thạch Nông thi tập của Nguyễn Tư Giản”, Luận văn thạc sĩ ngành Hán Nôm, Trường Đại  học Khoa học Xã hội và Nhân văn.
  4. Dương Quảng Hàm (1973), “Đề chùa Vô Vi”, Việt Nam văn học sử yếu, Trung tâm học liệu xuất bản.
  5. Phạm Hoa, Vũ Đăng, “Quần thể di tích chùa Trầm: Tiềm năng phát triển du lịch văn hóa – lịch sử của Thủ đô”, Tạp chí Người Hà Nội, ngày 23/10/2018.
  6. Phạm Thảo, “Về thăm quần thể núi Trầm”, Báo Lao động Thủ đô, ngày 06/04/2018.
Chấm điểm
Chia sẻ
Checkin

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *


Banner app chỐn thiÊng 3 (60x90)