Đức Thánh Chử Đồng Tử

Đức Thánh Chử Đồng Tử

Thông tin cơ bản

Thân thế

Chử Đồng Tử là một nhân vật truyền thuyết, thần thoại và là một vị thánh. Theo truyền thuyết, ông sống ở thế kỷ thứ IV-III trước Tây lịch (vào khoảng năm 300 TTL, thời Hùng Duệ Vương). Về sau, ông được liệt vào một trong Tứ bất tử của tín ngưỡng Việt Nam. Người đứng đầu trong Tứ thánh là Đệ nhất Đức Thánh Tản, hay Sơn Tinh, là vị thần núi Tản Viên (huyện Ba Vì, Thành phố Hà Nội), tượng trưng cho ước vọng chinh phục tự nhiên, chiến thắng thiên tai; Đệ nhị Đức Thánh Gióng, hay Phù Đổng Thiên Vương, tượng trưng cho tinh thần chống ngoại xâm; Đệ tam Đức Thánh Chử Đồng Tử, hay còn được gọi là Chử Đạo Tổ, tượng trưng cho lòng hiếu nghĩa, tình yêu, hôn nhân và sự sung túc, giàu có; Đệ tứ Thánh Mẫu Liễu Hạnh hay Mẫu Thượng Thiên, Mẫu Liễu Hạnh, tượng trưng cho cuộc sống tinh thần, đức hạnh, trí tuệ, sự thịnh vượng, thơ văn.

Truyền thuyết về ông được giới thiệu khá chi tiết trong truyện Nhất Dạ Trạch, sách Lĩnh Nam chích quái – một tác phẩm mang tính huyền sử, kể về những câu chuyện thần thoại thời kì cổ xưa của Việt Nam:

“Hùng-Vương truyền ngôi đến vua cháu ba đời, có sinh được một người con gái tên là Tiên-Dung Mỵ-Nương, tuổi vừa mười tám, dung-mạo tú-lệ, nguyện không lấy chồng, chỉ thích ngao-du thiên-hạ. Vương chiều mà nghe theo. Mỗi năm khoảng tháng hai, tháng ba, nàng sửa soạn thuyền ghe, lênh đênh ngoài biển, vui chơi quên cả ngày về.

Lúc bấy giờ Chử-Xá-Lang (làng Chử Xá) có người tên là Chử-Vy-Vân sinh được một người con trai tên là Chử Đồng Tử, hai cha con tính vốn hiền lành, nhà nghèo lại gặp nhà cháy, của cải khánh-tận chỉ còn một cái khổ vải, cha con ra vào thay đổi nhau mà mặc. Bị bệnh già, cha bảo con rằng :

– Ta chết thì chôn lỗ cũng được, đề cái khổ lại cho con mặc kẻo xấu-hổ.

Cha chết, người con không nỡ làm thế, cứ để cả khố mà chôn. Chử-Đồng-Tử bấy giờ thân hình trần-truồng, lạnh đối khôn xiết, mới cầm cần câu đi đến bờ sông câu cá, trông thấy thuyền buôn đi qua, đứng vào giữa nước mà xin ăn. Nào ngờ thuyền của Tiên-Dung bỗng đến đó; nghe thấy tiếng chuông trống đàn sáo, thấy những nghi trượng cờ xí, Đồng-Tử sợ-hãi, không biết trốn tránh vào đâu, trông thấy trong bãi phù-sa có chòm lau sậy, lơ thơ năm ba gốc, bèn ẩn thân vào đó, đào cát thành huyệt đề giấu mình, lại lấy cát vùi lên trên. Giây lát, thuyền của Tiên-Dung ghé vào đó; nàng dạo chơi trên bãi cát, truyền lấy mùng màn vây kín cả chỗ lau sậy để tắm. Tiên-Dung vào trong màn, cởi áo múc nước dội tắm; cát chảy, thân hình Đồng-Tử lộ ra, hồi lâu Tiên Dung biết là con trai. Tiên-Dung nói:

– Ta đã không thích lấy chồng, nay lại gặp người này ở trong huyệt cát, có lẽ trời khiến thế chăng ? Thôi người hãy dậy mà tắm rửa đi.

Rồi ban cho áo quần, cùng nhau xuống thuyền ăn uống hoan-lạc; người trong thuyền đều cho là một sự gặp gỡ tốt lành xưa nay chưa từng có. Đồng-Tử nói rõ sự tích cho Tiên-Dung nghe; Tiên-Dung thương xót, bảo làm vợ chồng. Đồng Tử cố từ. Tiên-Dung nói:

Việc này tự trời tác-hợp, việc gì mà từ chối?

Những người tháp tùng đem việc ấy tàu lên với Hùng-Vương ; Hùng-Vương giận bảo rằng :

Tiên-Dung không biết trọng danh-tiết, không biết tiếc tiền của ta, đi chơi giữa đường lại hạ-giá (lấy một người dưới) với người nghèo, còn mặt mũi nào mà thấy ta nữa; từ nay mặc kệ nó, không cho trở về nước nữa.

Tiên-Dung nghe tin, sợ không dám trở về mới cùng với Đồng Tử mở chợ búa, lập phố-sá, cùng nhân-gian mậu dịch, dần dần nơi ấy thành một ngôi chợ lớn (nay là chợ Hà-Loã); thương-nhân ngoại quốc qua lại buôn-bán, kính-sự Tiên-Dung Đồng Tử làm chủ; có một nhà đại thương đến nói với Tiên-Dung rằng :

Quý-nhân xuất ra một thoi vàng, năm nay cùng với người nhà buôn ra ngoài biển mà mua vật quý, sang năm sẽ lời được một thoi.

Tiên-Dung bảo Đồng Tử rằng :

Vợ chồng ta do trời định khiển, ăn mặc là của trời cho, bây giờ nên lấy một thoi vàng cùng với người nhà buôn đi ra biển mà mua hàng đem về làm kế sinh nhai.

 Đồng-Tử bèn cùng đi với người nhà buôn; ngoài biển có một hòn núi tên là Quỳnh-Viên-Sơn; trên núi có một chiếc am nhỏ, người đi buôn ghé thuyền ở đấy mà múc nước; Đồng-Tử lên chơi trên am, có một tiểu-tăng tên là Phật-Quang truyền phép cho Đồng Tử. Đồng-Tử mới lưu lại am nghe thuyết-pháp, giao vàng cho người đi buôn mua hàng, dặn lúc nào trở về thì ghé lại am dè chở Đồng-Tử về. Nhà sư mới tặng cho Đồng-Tử một cái gậy và một cái nón, bảo rằng:

Linh-thông tại đây đó.

Đồng-Tử trở về, đem chuyện đạo Phật nói hết với Tiên-Dung, từ đó giác-ngộ, bỏ chợ-búa, nghề buôn, đem nhau đi tìm thầy học đạo. Một hôm trời đã tối mà chưa đến nhà trọ, họ mới ở lại giữa đường, cắm gậy úp nón lên trên để che. Đêm đến canh ba, thấy hiện ra thành quách, lầu son đền báu, đài các lăng miếu, kho tàng miếu-xã, vàng bạc châu ngọc, chiếu giường mùng màn, tiên đồng ngọc nữ, tướng sĩ thị-vệ la-liệt đầy ở trước mặt. Sáng ngày, ai trông thấy cũng lấy làm kinh-di, tranh nhau đem những vật hoa hương ngọc thực đến dâng hiến và xưng thần. Văn võ bá quan phân-quân túc-vệ, biệt-lập thành một nước.

Hùng Vương hay tin cho là con gái mình làm loạn mới phát binh đi đánh; quan quân đến rồi, quần thần xin phân quân án-ngữ. Tiên-Dung cười rằng:

Chuyện nầy không phải tự ta làm ra, cũng là trời giun-giủi; sinh tử tại thiên, ta đâu dám chống cha, phải thuận chịu điều chính, chờ lệnh chém giết.

Lúc bấy giờ những người mới tập họp sợ hãi mà chạy tán loạn, chỉ còn bọn người cũ ở lại với Tiên-Dung. Quan quân kéo đến đóng doanh ở bãi Tự-Nhiên, chỉ còn cách một con sông lớn; ngày sắp tối nên chưa kịp tiến binh. Chừng đến nửa đêm, hốt nhiên gió lớn thổi làm nổi sóng đổ cây; quan quân đại-loạn; bộ đảng, thành quách của nàng Tiên-Dung nhất thời nhà đi bay lên trời; đất ở chỗ ấy sập xuống thành một cái đầm lớn. Sáng ngày, dân gian trông không thấy thành nữa, cho là linh dị bèn lập miếu đường, thời thường đến tế, gọi đầm ấy là Nhất-Dạ-Trạch, châu ấy là Man-Trù-Châu (hoặc gọi là Tự Nhiên-Châu), chợ ấy là Hà Loã-Thị.”[1] Ngày nhị vị đồng hoá được ghi nhận vào ngày 17 tháng 11 Âm lịch.

Những đóng góp

Theo GS Lê Mạnh Thát, “Chử Đồng Tử là người Việt Nam đầu tiên đã đến tiếp xúc với ông (nhà sư Phật Quang), để rồi sau đó, trở thành người Phật tử Việt Nam đầu tiên có tên tuổi.”[2]

Chử Đồng Tử còn là một tấm gương sáng về đạo hiếu. Nhắc đến Thánh Chử Đồng Tử, ta không thể không nhớ đến câu chuyện “hiếu nghĩa” khi quyết định chôn cha cùng chiếc khố duy nhất của gia đình. Như truyền thuyết kể trên trong Lĩnh Nam chích quái, có nhắc tới cách cư xử của ông khi cha mất: Người cha trước khi nhắm mắt đã dặn dò con rằng: “Cha chết cứ để trần mà chôn, giữ khố lại cho con.” Tuy nhiên, Chử Đồng Tử không nỡ táng cha trần không có quần áo. Đó không chỉ là chữ Hiếu mà còn là phong tục tang ma với quan niệm “trần sao âm vậy” và “nghĩa tử là nghĩa tận”, nghĩa là dành cho người đi xa mãi mãi những điều kính trọng, mến thương, luyến tiếc. Đồng Tử mong cha xuống âm phủ còn có cái khố che thân.

“Tích này đã biểu lộ một tấm lòng hiếu nghĩa sâu xa, thật tha thiết mà trời cao không sánh được của một người con qua một hành động và sự suy nghĩ đơn giản đối với bậc sinh ra và nuôi nấng mình.

Tấm gương trên đã nói lên lòng Hiếu thảo và tình nghĩa chan hoà trong cuộc sống, giúp cho con người được thành Nhân, bằng những công lao khó nhọc, có thể thấy được qua câu: Không ai tốt bằng Mẹ và không ai khổ bằng Cha. Tấm gương này cũng là một hình thức nhẹ nhàng đi vào lòng người để giúp cho con người tự tìm hiểu hai chữ Nhân Tâm vốn đã có sẵn trong từng con người.”[3]

Đức Thánh Chử Đồng Tử đã cùng công chúa Tiên Dung dạy dân lập làng, lập xóm, dạy cho dân biết trồng lúa, dệt vải, giao thương để phát triển sản xuất và xây dựng nên những xóm làng trù phú. Thánh đã dạy cho dân biết làm nghề để sống, là nghề buôn bán.

Không chỉ vậy, theo truyền thuyết, Đức Thánh Chử Đồng Tử còn từng góp công cho cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc khi báo mộng cho Triệu Quang Phục và bày cách chống lại giặc Lương: “Sau đến đời Nam-Đế, binh nhà Lương sang xâm chiếm nước ta, vua sai Triệu-Quang-Phục làm tướng đem binh ngăn giữ. Quang-Phục xuất-chúng tàng-ẩn ở trong đầm, cái đầm ấy sâu rộng bùn lầy, khó bề tiến lui; Quang-Phục cỡi chiếc thuyền độc mộc qua lại cho tiện, thường nhân đêm tối, cỡi thuyền độc mộc mà đột-xuất đánh phá cướp lấy lương-thực, làm kế trì-cửu cho giặc kiệt quệ. Ba bốn năm trường giặc không đánh được. Bá-Tiên than rằng:

– Đời xưa gọi là đầm nhất dạ thắng-thiên, ngày nay lại là cái đầm nhất dạ đạo kiếp.

Gặp lúc Hầu-Cảnh tác-loạn bên Trung-Hoa, vua Lương triệu Bá-Tiên về, ủy quyền cho tỳ tướng Dương-Sằn thống lĩnh quần chúng.

Quang-Phục trai-giới thiết đàn ở trong đầm, đốt hương cầu đảo. Thoát thấy thần nhân cõi rồng giáng xuống giữa đầm, bảo Quang-Phục rằng:

– Ta lên trời nhưng linh-dị còn ở đây, người có lòng thành cầu đảo, ta đến giúp để bình loạn tặc.

Rồi cởi vuốt rồng dưa cho Quang-Phục bảo giắt vào đầu-mâu, hễ đánh đâu là được đó. Nói đoạn lại bay lên trời; Quang-Phục y như lời dặn đem binh đột kích, binh Lương đại-bại, chém được, tướng Dương-Sắn ở trận-tiền, binh Lương lui chạy.

Quang-Phục nghe tin Nam-Đế mất, bèn tự lập lên làm Triệu-Vương, đóng đô ở quận Vũ-Ninh núi Trâu-Sơn.”[4]

Chú thích

[1] Trần Thế Pháp, Lĩnh Nam chích quái, Nhà sách Khai Trí, 1961,  tr. 51 – 53.

[2] Lê Mạnh Thát, Lịch sử Phật giáo Việt Nam, tập 1, Nxb TP Hồ Chí Minh, 2003, tr. 28.

[3] TS Huệ Dân, “Chử Đồng Tử và chữ Hiếu”, Cổng thông tin Phật giáo thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam, ngày 4/9/2017.

[4] Trần Thế Pháp, Lĩnh Nam chích quái, Sđd, tr. 53 – 54. 

Tham khảo

  1. TS Huệ Dân, “Chử Đồng Tử và chữ Hiếu”, Cổng thông tin Phật giáo thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam, ngày 4/9/2017.
  2. Trần Thế Pháp (1961), Lĩnh Nam chích quái, Nhà sách Khai Trí.
  3. Lê Mạnh Thát (2003), Lịch sử Phật giáo Việt Nam, tập 1, Nxb TP Hồ Chí Minh.
5/5 (2 bình chọn)
Chia sẻ
Duc Thanh Chu Dong Tu

Nội dung chính

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *


Banner App ChỐn ThiÊng 3 (60x90)