Thân thế
Hòa thượng Giác Tiên, họ Nguyễn, sinh năm Canh Thìn 1880 (năm Tự Đức thứ 33) tại làng Giạ Lê Thượng, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Mặc dù đời thường của Ngài bắt đầu với sự mất mát sớm của cha mẹ, nhưng niềm đam mê tìm kiếm Đạo đã dẫn Ngài đến chùa Từ Hiếu khi mới 15 tuổi.
Cơ duyên tu tập
Năm Canh Tý (1900), Ngài 21 tuổi, thọ giới Sa Di, bước chân vào con đường xuất gia.
Năm Giáp Thìn (1904), Ngài, theo Hòa thượng Bổn sư Tâm Tịnh, quyết định xây dựng Am Thiếu Lâm để thực hiện hành trì tĩnh tu, nhường chùa Từ Hiếu cho bản phái khác. Cuộc sống tu học tại Am Thiếu Lâm, gần chùa Tây Thiên, giúp Ngài tìm thấy bình yên và sự tịnh lặng.
Năm Mậu Thân (1908), tại Đại giới đàn chùa Phước Lâm ở Quảng Nam, Ngài được giao thọ Cụ Túc giới, trở thành một giới tử xuất sắc và Thủ chúng Sa Di. Những năm tiếp theo, Ngài dành thời gian tham gia các khóa giảng tại chùa Thiên Hưng, do Hòa thượng Huệ Pháp chủ trì. Ngài được đánh giá cao về túc căn thâm hậu và lòng chánh trực.
Năm Quý Sửu (1913), sau khi Ni Sư Diên Trường hoàn tất xây dựng chùa Trúc Lâm, ngay lập tức, Ni Sư xin phép Hòa Thượng Tâm Tịnh để mời Hòa thượng Giác Tiên đến đảm nhiệm trách trì ngôi chùa mới này. Ngài đồng lòng đến đây, mở rộng các hoạt động hoằng dương Chánh pháp, và tầm tiếng tăm của Ngài trở nên vang xa, không chỉ giới hạn trong làng Dương Xuân Thượng mà còn lan tỏa đến mọi nơi.
Những đóng góp cho Phật giáo
Năm Canh Thân (1920), tại chùa Thiên Hưng, Hòa thượng Huệ Pháp chủ trì các khóa giảng thường xuyên, thu hút sự tham gia của nhiều vị Tăng khác, trong đó có Hòa thượng Giác Tiên. Sau thời gian học tập đầy ý nghĩa, Hòa thượng Huệ Pháp đã ca ngợi Ngài là người có túc căn thâm hậu, góp phần làm sáng tỏ đạo lý Phật pháp.
Năm Quý Hợi (1923), Ngài tổ chức Đại giới đàn tại chùa Từ Hiếu, trong đó Mật Khế, đệ tử của Ngài, thọ đại giới, và Bổn sư Ngài, Hòa thượng Tâm Tịnh, truyền giới. Năm Ất Sửu (1925), Ngài được triều đình sắc chỉ làm trụ trì chùa Diệu Đế.
Năm Kỷ Tỵ (1929), sau khi trùng tu chùa Trúc Lâm và mở Phật Học Đường, Ngài thỉnh Hòa thượng Phước Huệ từ chùa Thập Tháp Di Đà về Trúc Lâm giảng dạy. Những đệ tử của Ngài, như thầy Mật Khế, Mật Nguyện, Mật Hiển và Mật Thể, đều là những người tích cực đóng góp trong công cuộc chấn hưng Phật giáo. Đặc biệt, cư sĩ Lê Đình Thám, Y sĩ trưởng tại viện Pasteur Huế, đã quy y với Ngài và đóng góp tích cực trong việc thành lập hội An Nam Phật Học năm 1932, thể hiện lòng tận tụy và đóng góp lớn của Hòa thượng Giác Tiên cho sự phát triển của Phật giáo.
Ngài đã dành sự quan tâm đặc biệt cho việc đào tạo Tăng tài, và nhờ những nỗ lực này, chùa Trúc Lâm đã trở thành nơi sinh sống của nhiều cột trụ xuất sắc của Phật giáo cận đại. Trong số những Tăng sĩ nổi bật, có những người như Quảng Huệ, Trí Thủ, Mật Thể, Chánh Thông, Thiện Trí, Thiện Hoa, Thiện Hòa…
Năm Quý Dậu (1933), trong năm Bảo Đại thứ 8, Ngài ủy thác thầy Mật Khế mở Trường Tiểu học Phật Học tại chùa Vạn Phước, trực thuộc Hội An Nam Phật Học. Năm Giáp Tuất (1934), Ngài cùng thầy Mật Khế tổ chức Trường An Nam Phật Học tại chùa Trúc Lâm, nhận đến năm mươi học Tăng. Cuối năm này, Ngài đã thu hút một lượng lớn học Tăng có kiến thức và trình độ cao để mở Cấp Đại học Phật giáo, cũng tại Trúc Lâm.
Trong giai đoạn này, chấn hưng Phật giáo ở miền Trung đạt đến đỉnh điểm, đặc biệt nhờ uy đức của Ngài và tài năng của Tâm Minh – Lê Đình Thám. Sự hỗ trợ nhiệt tình của các nhà học Phật như Ưng Bàng, Nguyễn Đình Hòe, Nguyễn Khoa Tân Viễn Đệ, Nguyễn Khoa Toàn, Ứng Bình, Bửu Bác, Trần Đăng Khoa, Lê Thanh Cảnh, Lê Quang Thiết, Trương Xướng, Tôn Thất Quyên, Nguyễn Xuân Tiếu, Hoàng Xuân Ba, Lê Bá Ý, và Tôn Thất Tùng. Qua Hội An Nam Phật Học và tạp chí Viên Âm, Ngài và đệ tử đã có khả năng hội nhập nhiều quan điểm khác nhau, nhưng đều hướng về mục tiêu chung là tận dụng tri thức để phục vụ Phật pháp.
Kệ đắc pháp
Khi sinh thời, Bổn sư Tâm Tịnh đã truyền cho Ngài bài kệ đắc pháp như sau:
Giác đạo kiếp không tiên
Không không Bát Nhã thuyền
Quả nhân phù hạnh giải
Xứ xứ đắc an nhiên.
Dịch :
Đường giác trước không kiếp
Thuyền Bát Nhã không không
Hạnh giải hợp nhân quả
Ở đâu cũng thung dung.
Thời kỳ viên tịch
Ngài đã hướng dẫn Hội An Nam Phật Học trong bốn năm. Năm Bính Tý (1936), ngày mồng 2 tháng 10 Âm lịch, Ngài triệu tập các môn đồ tứ chúng về và tụng bộ Pháp Bảo Đàn Kinh, đến khi tụng đến phẩm Bát Nhã, Ngài đã dừng lại để dặn dò những điều cần thiết.
Đến ngày mồng 4, Ngài yên bình viên tịch, thọ 57 tuổi đời và 29 hạ lạp. Tháp tưởng nhớ Ngài được xây dựng tại phía tả khuôn viên chùa Trúc Lâm.
Tham khảo
- Tiểu sử danh tăng Việt Nam thế kỷ XX, tập 1, TT. Thích Đồng Bổn, thành hội Phật giáo TP. HCM. 1995