Hoà Thượng Thích Minh Đức (1919 – 2007)

Hoà Thượng Thích Minh Đức (1919 – 2007)

Thông tin cơ bản

Thân thế

Hòa Thượng thế danh Lê Huấn – Húy Tâm Hộ – Tự Thiện Thành – Hiệu thượng Minh hạ Đức. Sinh năm Kỷ Mùi, tại tổng Bình Thạnh, phủ Bình Thuận (Nay là xã Bình Thạnh, huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận). Thân phụ: Lê Thức – Pháp danh là Tâm Trí. Thân mẫu: Nguyễn Thị Vân – Pháp danh là Tâm Hà.

Hòa thượng là trưởng nam trong gia đình có 5 anh em: 3 trai, 2 gái. Một gia đình Nho giáo nhân hậu hiền đức trong nhiều thế hệ. Song thân đều quy kính Tam Bảo, nhờ phúc đức tổ tông lại sống gần chùa; do đó mà hạt giống Bồ đề ngày càng phát triển. Có lẽ do túc duyên nhiều đời nên chí xuất trần luôn ấp ủ trong tâm tư nguyện vọng.

Cơ duyên tu hành

Lúc thiếu thời, Ngài là một Nho sinh, học trò lễ của làng trong các kỳ tế lệ tại các Đình, Miếu. Nên Ngài rất thông về lễ nghi Nho giáo truyền thừa. Với bản tánh chất trực minh chính, sẵn có lòng yêu nước, Hòa thượng sớm giác ngộ hiểu rõ được “Quốc gia Thân vong, Thất Phu hữu trách”; do đó, Ngài sớm tham gia hoạt động cách mạng. Từng bị địch bắt, đánh đập tù đày và hiểu được Vô Thường nên Ngài đã gieo duyên cùng Phật Pháp.

Lại một sự trùng hợp hữu duyên đến với đời Ngài, gặp nhân duyên hội ngộ trên đường hoằng đạo của Hòa Thượng Chơn Châu – xuất du vãng cảnh tu hành tìm phù tổ ấn. Gia đình Ngài đã cầu xin quy y Tam Bảo với Hòa Thượng Chơn Châu – tại Tổ Đình Long Quang – Phan Rí. Ngài được Hòa Thượng cho pháp danh là Tâm Hộ từ đó. Rồi vâng lệnh song thân lập gia đình nối dõi tông đường gia phong Lê Phái, nhưng trong lòng luôn ấp ủ hoài bão tham cầu học Đạo.

Với chí xuất trần quá lớn năm 1945, Ngài xuất gia nhập Đạo, với bản tánh cần cầu học Đạo, đến năm 1948 thọ Sadi giới với pháp tự Thiện Thành. Năm 1950, được Bổn Sư cho y chỉ cầu Pháp thọ Cụ Túc giới với Hòa Thượng Bửu HiềnTổ Đình sắc Tứ Trùng Khánh – Phan Rang, ban cho hiệu thượng Minh hạ Đức. Cùng với chư huynh đệ như Hòa Thượng Minh Tâm, Minh Chơn, Minh Đạo, Minh Mẫn, Minh Ngọc, … Ngài lại được Hòa Thượng Ân sư khuyên tấn cho đi tham cầu học Đạo tại Phật học đường Báo Quốc, Linh Quang – Huế. Trong các mùa An Cư Kiết Hạ (ACKH) mỗi năm, cùng đi trong các mùa ACKH trong tỉnh có Chư Tôn Hòa Thượng Ấn Tâm, Minh Chơn, Minh Đạo, Viên Trí, Tường Vân, … Ngoài tỉnh có Hòa Thượng Từ Mãn (Lâm Đồng), Từ Mẫn, Quang Thể (Quảng Nam), Thiện Cảnh (Quảng Nghĩa), Giác Ngộ, Giác Châu (Bình Định) …

Quá trình hành đạo

Năm 1954, khi đình chiến cũng là lúc Ngài được Bổn đạo, thiện tín trong làng thỉnh cử Ngài làm Giám Tự rồi Trụ Trì tổ Đình cổ Thạch Tự. Thế là từ đó, Ngài lo trùng tu, xây dựng tái tạo lại tổ Đình cùng Chư Thiện tín gần xa góp phần xây dựng trùng tu Chánh điện, nhà Tổ, các Tháp của Chư Tổ Hòa Thượng các đời Trụ Trì, xây dựng Tam Thế Phật Đài, nhà Vãng sinh thờ các anh em chiến sĩ đã hy sinh.

Vừa tu học Đạo, vừa lo toan việc đời trong thời bom rơi đạn lạc của chiến tranh tàn phá, lại giúp đỡ tham gia Cách mạng trong cao trào hoạt động của Phật Giáo Cứu Quốc, nuôi dấu cán bộ Cách Mạng, nắm tình hình địch vận… Nhưng Ngài vẫn luôn tu trì Giới – Định – Huệ. Mỗi năm lại 03 tháng ACKH, lúc nơi này, khi chổ khác, lúc tại Linh Quang – Huế, khi ở Phật Quang – Phan Thiết, rồi Vạn Thiện Tòng Lâm – Thiên Tường, khi Vạn Đức – Hòa Đa, lúc Linh Bửu – Tuy Phong. Trong những mùa ACKH, Ngài đã cùng Chư Hòa Thượng Ấn Tâm, Minh Chơn, Minh Đạo, Viên Trí, Minh Ngọc, Minh Pháp, Minh Ứng, … thành lập Tòng Lâm Vạn Đức để Chư Tăng Bắc Bình Thuận có nơi an trú trong mùa ACKH. Cũng như tại các Giới Đàn, Tòng Lâm Vạn Thiện (1970) suy cử thỉnh vào hàng Tôn Chứng – Chứng Minh Giới Đàn Bảo Tạng – Hữu Đức hoặc các Đạo tràng lớn nhỏ trong tỉnh, nơi nào thỉnh cầu ngài đều quan lâm Chứng minh.

Trong thời kỳ đen tối của Phật Giáo nước nhà, đấu tranh kỳ thị Tôn Giáo của chế độ Ngô Đình Diệm năm 1963, Ngài đã cùng Chư Tôn Đức xuống đường tuyệt thực tại Chùa Tỉnh Hội – Phan Thiết để đòi thực thi 5 nguyện vọng của Phật Giáo Đồ – Để đàn áp Phật Giáo trong danh sách đem bỏ bao Ngài đều có tên vì lúc bấy giờ Ngài là Phó Trị Sự Phật Giáo Quận Tuy Phong (GHPGVNTN). Nhưng mọi việc đều thay đổi, chế độ Ngô Đình Diệm lại sụp đổ. Âu cũng lật lẽ phải, cái thiện ắt phải thắng cái ác, bạo tàn phải nhường chính nghĩa.

Rồi mùa Xuân năm 1975, nước nhà đã hoàn toàn độc lập thống nhất, giang sơn quy về một mối, Ngài cùng Chư Tôn Đức, quý Hòa Thượng Hưng Từ, Ấn Tâm, Minh Tâm, Minh Chơn, Minh Đạo, Quý Ni Trưởng Huyền Học, Huyền Tông, Huyền Phương… vận động chấn hưng các hệ phái đi đến thống nhất Phật Giáo toàn Quốc, thành lập Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam vào tháng 11 năm 1981 và thành lập Ban Trị Sự Phật Giáo tỉnh nhà năm 1982. Kể từ ngày Giải phóng thống nhất đất nước, Ngài đã được Giáo Hội, toàn thể Chư Tăng Ni Phật Tử cùng nhân dân tin tưởng giao phó cho nhiều trọng trách, đảm nhận nhiều vai trò và trách nhiệm.

VỀ XÃ HỘI – NHÀ NƯỚC: Từ năm 1976 – 1989:

  • Là ủy viên ủy Ban MTTQVN Tỉnh Thuận Hải- Bình Thuận.
  • Đại biểu HĐND Huyện Bắc Bình – Tuy Phong,
  • Đại biểu HĐND Tỉnh khóa I – II – III

VỀ GIÁO HỘI:

Từ khi thành lập GHPGVN tháng 11/1981 – Ban Trị Sự Phât Giáo Tỉnh tháng 10/1982 đến nay:

  • Hòa Thượng cố vấn Chứng Minh Ban Trị Sự.
  • Chánh Đại Diện lưỡng Huyện Tuy Phong – Bắc Bình, Từ năm 1982- 1987: ủy Viên Kiểm Soát Ban Trị Sự (năm 1982- 1999).

Năm 1999, được GHTW đề cử Quyền Trưởng Ban Trị Sự lâm thời Tỉnh (Bình Thuận).

Tháng 10/ 2000, Tại Đại Hội Đại Biểu PG Tỉnh, được suy cử Trưởng Ban Trị Sự Phật Giáo Tỉnh Khóa V rồi Khóa VI.

Đại Hội Đại Biểu PG Toàn Quốc lần V (tại Thủ đô Hà Nội) Đại Hội cung cử vào hàng Chứng Minh TW Giáo Hội. Hội Đổng Chứng Minh GHPGVN.

Trải qua gần 60 năm Trụ Trì ngôi Tổ Đình cổ Thạch Tự. Biết bao thăng trầm biến thiên của lịch sử, Ngài đã từng bước trùng tu, tái thiết xây dựng Ngôi Tổ Đình.

Năm 1986, được một Phật tử Diệu Hiền phát tâm hỷ cúng cho Ngài Ngôi Bảo Tháp – Nhớ nghĩ do công đức trì tụng Đại Thừa Pháp Hoa, Ngài đặc tên cho Ngôi tháp: PHÁP HOA SINH THÁP.

Tháng 12/1993, Tổ Đình cổ Thạch Tự được Nhà Nước – Bộ Văn Hóa công nhận trở thành một danh lam thắng cảnh Di tích lịch sử văn hóa, góp phần tô đẹp thêm trong vườn hoa tươi thắm sắc màu của Phật Giáo nước nhà.

Tổ Đình Cổ Thạch Tự bề thế khang trang như ngày hôm nay là từ năm 2000 đến nay đều xây dựng theo công trình quy hoạch tổng thể của Chùa được tiến hành trùng tu xây dựng từng năm, ấy cũng là ước nguyện của Ngài cùng hàng Tăng Chúng môn đồ đệ tử.

Với hạnh nguyện tiếp Tăng độ chúng của Ngài đối với hàng tứ chúng môn đồ đệ tử xuất gia, Ngài thường nhắc nhở, nhắn nhủ: “Ăn cơm có canh – Tu hành có bạn”. Anh em phải hòa hợp như nước với sữa, phải hiểu rằng: “Không vui trong lúc thạnh, chẳng buồn trong lúc suy”. Hay rằng: “ăn cây nào , rào cây ấy”…

Riêng hàng Đệ tử tại gia đã Quy y với Ngài, với mọi thành phần trên mọi miền bất kể người Kinh hay người Dân tộc đều tìm đến với Ngài để được toại nguyện yên vui cùng hiện tại hay khi nghe thiên tai bảo lũ nơi nào xảy ra, Ngài luôn cầu nguyện để đem đến bình an tới mọi người với tâm hạnh cứu khổ ban vui của Ngài cho tất cả mọi người.

Sinh tiền, Hòa Thượng Minh Đạo đã tặng Ngài câu liên:

Minh Đức Trụ Trì khai tấn hóa,
Chúng sinh dị độ vạn niên tồn.

Riêng phần Ngài sống cuộc sống đơn giản, giản dị bình thường, không đòi hỏi những gì tốt đẹp. Nơi ở vẫn trước Phật, sau Tăng không thay đổi, mặc cho Chư đệ tử thỉnh Ngài trụ tại Thiền đường, Phương trượng đủ mọi vật dụng, nhưng Ngài vẫn an nhiên không đổi thay.

Thật là cuộc đời đầy giản dị, ăn – ở không nệ hà. Với tinh thần hoằng dương Đạo Pháp — lợi lạc quần sinh, tiếp dẫn hậu lai. báo Phật Ân Đức, gần trọn cuộc đời Hòa Thượng đã phụng sự cho: Đạo Pháp – Dân Tộc.

Được Giáo Hội tặng bằng khen: Tuyên dương Công đức.

Đảng, Nhà Nước khen tặng: Huân Chương Kháng Chiến hạng Nhất – Huân Chương Độc Lập hạng Ba – Huy Chương “ Vì Sự Nghiệp Đại Đoàn Kết Toàn Dân Tộc”.

Cùng nhiều Huân – Huy Chương – Bằng Khen – Giấy Khen – Tặng phẩm.

Viên tịch

Thế rồi! Theo định luật vô thường, lực bất tòng tâm, tuổi ngày càng tăng, thân ngày lại một yếu, sinh lực cạn kiệt dần. Sau khi dặn dò Chư Đệ tử Môn đồ, Hòa Thượng an nhiên chấp tay từ biệt môn đồ xã báo thân, vào lúc 01 giờ 30 phút, ngày 13 tháng 04 năm Đinh Hợi (nhằm ngày 29 tháng 05 năm 2007).

Thế rồi Ngài đã an nhiên Thu Thần Thị Tịch Hạ lạp 57. Trụ thế 89. Ngài ra đi vĩnh viễn, bỏ lại các pháp hữu vi giả tạm. Từ đây tại trụ xứ Tổ Đình Cổ Thạch Tự đã vắng bóng Ân Sư.

Thế là! Cõi ta bà đã khuất bóng một vì sao,
Miền Cực lạc trang nghiêm thêm vị Đại Sĩ.

(Môn đồ tứ chúng kính lược ghi trong kỷ yếu)

Nguồn: Lược Sử Phật Giáo Bình Thuận, trang Facebook Chùa tôi Bình Thuận

5/5 (3 bình chọn)
Chia sẻ
Hoà Thượng Thích Minh Đức (1919 2007)

Nội dung chính

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *


Banner app chỐn thiÊng 3 (60x90)