Thân thế
Thiền sư Nhất Cú Trí Giáo (tiếng Trung: 一 句 智 教), thiền sư trung quốc, thuộc Tào Động Tông đời thứ 30. Sư sống vào thế kỉ XVI – XVII, là đệ tử nối pháp của thiền sư Tử Mai Tịnh Chu. Sư là thầy, người đã truyền chính pháp nhãn tạng của Tào động tông cho thiền sư Thông Giác Thủy Nguyệt. Sau này Thiền sư Thông Giác trở về Việt nam và mở đầu tông Tào Động tại Việt nam.
Cơ duyên
Sư xuất gia và tham Thiền với Thiền Sư Tịnh Chu ở núi An Kiết. Cơ duyên ngộ đạo của sư được ghi lại như sau:
Một hôm, trong giờ Tiểu tham, Sư hỏi Thiền sư Tịnh Chu: Ngồi vững trên sóng dứt bụi bặm, là ý chỉ thế nào?
Tịnh Chu đáp bằng bài kệ. Sư liền đảnh lễ.
Tịnh Chu hỏi:” Người hiểu được cái gì mà đảnh lễ?”
Sư thưa:” Lửa to đốt núi, một đốm tự rơi”.
Tịnh Chu bảo:
– Lửa tàn tro lạnh khói hơi bặt
Gió thổi trăng trong sương mù tan.
Hãy nói khi ấy thế nào?
Sư thưa:– Không đáp được.
Tịnh Chu bảo:
– Ngọn núi cần nhóm lửa
Dưới mây gió thổi nhanh.
Ý này thế nào ?
Sư đáp:– Tiếng chuông trống hòa nhau
Nước sóng cồn theo vậy.
Thiền sư Tịnh Chu thấy sư căn tính lanh lợi nên cho nhập chúng tu tập, sau này sư ngộ đạo và được Thiền Sư Tịnh Chu ấn khả chứng minh và cho sư nối pháp Tông Tào Động.
Hành trạng
Trên bước đường hoằng pháp, sư đến trú trì tại Nhân Vương Hộ Quốc Thiền Tự ở núi Phụng Hoàng, Hồ Châu và bắt đầu xiển dương Tào Động Tông. Sư khai đường dạy chúng, đạo pháp rất tinh nghiêm. Học giả bốn phương nghe danh qui tụ về rất đông, từng có nhiều vị tăng, cư sĩ đến tham vấn. Đương thời những vị quan chức, học giả Nho giáo cũng đến tham học với sư như: thái sư Kim Khởi,thái sử Phạm Đình Nhạc…
Thiền sư Thông Giác Thủy Nguyệt từng cùng thị giả hành cước sang Trung Quốc cầu đạo và có duyên gặp gỡ sư, được sư chấp nhận cho tu hành. Về sau,sư Thông Giác đạt đạo và được sư ấn khả,nối pháp Tào Động Tông và cho phép về Việt Nam truyền bá Tông Tào Động. Từ Thiền sư Thông Giác, tông Tào Động được truyền vào miền Bắc Việt Nam.
Truyền pháp cho đệ tử
Sắp tịch, sư truyền pháp cho đệ tử Thông Giác qua bài kệ:
Xuân sắc sắc, thảo nhung nhung
Vạn vũ chi điều khai thiết thiết
Nhất hành dương phát sản trùng trùng
Thủy tẩm nguyệt viên trừng hải để
Sơn đầu nhật xuất lộ nham phong.
Dịch nghĩa:
Xuân sặc sỡ, cỏ như nhung
Khắp chốn ngàn cây bông trổ gấp
Một cành dương liễu nẩy trùng trùng
Trăng chìm đáy biển nước sóng lặng
Đỉnh núi nhật lên bày chót cao.
Nói kệ xong, sư ngồi kiết tọa mà thị tịch. Đồ chúng xây tháp tôn thờ tại núi Hồ Châu.
Tham khảo
- Sách “Thiền uyển tập anh”, Lê Mạnh Phát, Viện nghiên cứu Phật học, Nhà xuất bản Văn học, năm 1990
- Sách “Thiền sư Việt Nam”, Thích Thanh Từ, DL 1999 – PL 2543
- https://www.thienlam.org/news/Thien-Su-Viet-Nam/Thien-Su-NHAT-CU-TRI-GIAO-2678