Thiền sư Trí Bảo (? – 1190)

Thiền sư Trí Bảo (? – 1190)

Giới thiệu


Thiền sư Trí Bảo (? – 1190) đời thứ 10, dòng Vô Ngôn Thông.

Thiền sư họ Nguyễn, quê ở Ô Diên, Vĩnh Khương, là cậu ruột Tô Hiến Thành, một đại công thần đời Lý Anh Tông.

Cơ duyên tu tập


Sư xuất gia vào tu ở chùa Thanh Tước trên núi Du Hý làng Cát Lợi, đất Thường Lạc. Thường ngày mặc áo vá ăn cơm hẩm, cả mười năm không đổi chiếc áo, đến ba ngày chẳng thổi lửa nấu cơm, tay chân chai cóp, thân thể khô khan. Thấy có người đến thì khoanh tay đứng nép một bên, gặp bậc Sa-môn thì quỳ gối lễ bái. Sư chuyên tu như vậy đến sáu năm mới xuống núi.

Xuống núi, Sư chuyên tạo phước nào sửa đường, bắc cầu, cất chùa, xây tháp, tùy duyên khuyến khích người, không vì lợi dưỡng.

Chợt một hôm gặp vị Tăng hỏi: 

Sanh từ đâu lại, tử đi về đâu?

Sư liền suy nghĩ. Vị Tăng ấy bảo: 

Trong lúc ông suy nghĩ, mây trắng bay ngàn dặm.

Sư không đáp được. Vị Tăng ấy quát: 

Chùa tốt mà không có Phật.

Nói rồi bèn bỏ đi. Sư tự than rằng: 

Ta tuy có tâm xuất gia, nhưng chưa được yếu chỉ của người xuất gia, ví như kẻ đào giếng, dù đào đến chín, mười thước mà chưa có nước, vẫn phải bỏ đi. Huống là, tu thân mà chẳng ngộ đạo thì có ích gì?

Từ đây, Sư dạo khắp bốn phương tham tìm bậc thiện tri thức.

Nghe Thiền sư Đạo Huệ giáo hóa ở Tiên Du, Sư liền đến đó.

Sư hỏi Đạo Huệ: 

Sanh từ đâu lại, tử đi về đâu?

Đạo Huệ bảo: 

Sanh không từ đâu lại, tử chẳng đi về đâu.

Sư thưa: 

Thế ấy, đâu chẳng rơi vào chỗ không sao?

Đạo Huệ bảo: 

Chân tánh diệu viên, thể tự không tịch, vận dụng tự tại, chẳng đồng với sanh tử. Thế nên, sanh không từ đâu đến, tử chẳng đi về đâu.

Ngay câu nói này, Sư liền lãnh ngộ, nói:

Chẳng nhân gió cuốn mây trôi hết, 
Đâu thấy trời trong muôn dặm thu. 

(Bất nhân phong quyển phù vân tận, 
Tranh kiến thanh thiên vạn lý thu.)

Đạo Huệ hỏi: 

Ngươi thấy cái gì?

Sư thưa:

Biết nhau khắp thiên hạ,
Tri âm có mấy người.

(Tương thức mãn thiên hạ,
Tri âm năng kỉ nhân.)

Sư bèn từ tạ trở về núi.

Từ đây, Sư nói ngang nói dọc, như chọi đá nháng lửa.

Một hôm, Sư thăng đường, tăng tục vây quanh, có người hỏi: 

Thế nào là tri túc?

Sư đáp:

Phàm người xuất gia và tại gia đều phải biết tri túc. Nếu người biết tri túc thì ngoài chẳng lấn người, trong không tổn mình. Vật nhỏ nhít như rau cỏ, người không cho, mình chẳng nên lấy. Huống là, những vật lớn khác thuộc của người, khởi tưởng là vật của người, trọn không do đây mà sanh tâm trộm cắp. Cho đến, thê thiếp của người, khởi tưởng là thê thiếp người, cũng không do đây mà sanh tâm dâm.

Các ngươi nghe ta nói kệ:

Của dùng Bồ-tát biết vừa đủ,
Đối người thương xót chẳng lấn tham.
Vật mọn không cho ta chẳng lấy,
Chẳng quản của người đức ngọc lành.
Bồ-tát vợ nhà còn biết đủ,
Tại sao vợ người lại khởi tham?
Thê thiếp của người người bảo hộ,
Đâu nỡ lòng mình khởi vạy tà.

(Bồ-tát tư tài tri chỉ túc,
Ư tha từ bi bất dâm dục.
Thảo diệp bất dữ ngã bất thủ,
Bất tưởng tha vật đức như ngọc.
Bồ-tát tự thê phương tri túc,
Như hà tha thê khởi tham dục?
Ư tha thê, thiếp, tha sở hộ,
An nhẫn tự tâm khởi tâm khúc.)

Đến ngày 14 tháng 4 năm thứ năm niên hiệu Thiên Tư Gia Thụy (1190) đời Lý Cao Tông, Sư cáo bệnh và thị tịch. Đệ tử làm lễ hỏa táng, thu linh cốt, xây tháp thờ tại sơn môn.

Bình chú

  • Thời loạn có nhiều người xuất gia, tự tu, bao gồm cả giới tri thức, nhưng đa số tu học không đầy đủ mà chỉ cầu yên thân, nên vất vả mà khó chứng đắc
  • Hạnh “Thường Bất Khinh Bồ Tát” (Thấy một kẻ nghèo thì vòng tay tránh đường, gặp một sa môn thì quỳ gối lễ bái) có thể liên quan tới hệ Pháp Hoa (Phẩm Thường Bất Khinh)
  • Việc dựng cầu, làm đường, xây chùa, xây tháp là những việc tạo phước mà các tổ sư nước ta thường theo (chứ không ẩn tu lánh đời), tổ Trúc Lâm Trần Nhân Tông có dạy việc người tu là phải phúc tuệ song tu (Cư Trần Lạc Đạo Phú): 

Dựng cầu đò, dồi chiền pháp, ngoại trang nghiêm sự tướng hãy tu
Năng hỷ xả, nhuyễn từ bi, nội tự tại kinh lòng hằng đọc

  • “Chùa tốt mà không có Phật” là câu rất thú vị, vị Tăng nói về việc sư Trí Bảo có tu thân nghiêm chỉnh (hành hạnh đầu đà) nhưng chưa chứng ngộ
  • “Sanh không từ đâu lại, tử chẳng đi về đâu” (Kinh Kim Cang: Vô sở tùng lai, diệc vô sở khứ, cố danh Như Lai) là ngài Đạo Huệ trả lời từ góc độ “Phật tính bản hữu, bất sinh bất diệt, viên mãn tự tại” chứ không trả lời câu hỏi sinh tử theo nghĩa lý thế gian
  • Bài kệ ngộ đạo nghĩa là: Không nhân có gió cuốn mây bay đi hết thì không thấy được trời xanh (dù trời vốn nó xanh ở đó từ xưa)
  • Nói như “chọi đá nháng lửa” tức là đối đáp nhanh như tia lửa xẹt.

Tham khảo


  • Sách “Thiền uyển tập anh”, Lê Mạnh Phát, Viện nghiên cứu Phật học, Nhà xuất bản Văn học năm 1990.
  • Sách Thiền Sư Việt Nam, Thích Thanh Từ, DL 1999 PL 2543.
5/5 (1 bình chọn)
Chia sẻ
Thiền sư Trí Bảo

Nội dung chính

Hình ảnh
Địa điểm liên quan
Nội dung đang được cập nhật.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *