Thân thế
Ngài được biết đến với danh xưng là Tổ Bằng Sở, xuất thân từ họ Phan, là hậu duệ của làng Hoành Đông, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định. Tổ Bằng Sở, hay còn được gọi là Chân Như, thuộc dòng thi lễ. Trong gia đình, tổ tiên của Ngài đã có thành tựu đáng kể và đã làm đến chức vị Quận công trong thời kỳ hậu Lê.
Ngày từ thuở nhỏ, Tổ Bằng Sở đã được dạy chữ Nho và tỏ ra thông minh xuất chúng. Với Ngũ Kinh, Tứ Thư, cho đến Bách Gia Chư Tử, Ngài đều thông suốt và sáng tỏ. Tuy nhiên, thay vì theo đuổi văn chương thi phú, Ngài đã quyết định tìm đến chốn thiền môn, đặt lòng tu thân để cứu đời.
Cơ duyên tu hành
Vào năm 1890, khi 19 tuổi, Ngài đến chùa Liên Tỉnh ở Nam Định để xin thế phát và thọ giới Sa Di. Sau vài năm, Ngài được Bổn sư thọ giáo với Hòa thượng chùa Thịnh Quang, một vị chân tu giữ luật tinh nghiêm. Ngài tiếp tục thọ giới Cụ Túc tại Đại giới đàn chùa Linh Quang và dành thời gian ở đây để tu học, trau giồi giới luật. Với trình độ Hán học uyên thâm và lòng tu trì, Ngài nhanh chóng thâm nhập kinh tạng, trở thành một bậc lương đống trong cộng đồng thiền gia.
Những đóng góp cho Phật giáo
Khi ngoài tuổi 40, Hòa thượng nhận thấy sự thiếu sót về giáo lý và giới luật trong hàng ngũ thanh niên Phật tử. Vì vậy, Ngài bắt đầu tập trung vào việc dìu dắt hậu nghiệp. An trụ tại chùa Bằng, Ngài mở đầu thuyết pháp tại đó, và khi chuyển đến chùa Sở, cũng tiếp tục công việc này. Suốt quãng thời gian dài, Ngài tận tụy với sứ mệnh hoằng dương Chánh pháp mà không bao giờ ngơi nghỉ.
Hòa thượng giảng kinh cốt để người nghe hiểu rõ nghĩa, không gò ép theo lối thuyết giảng truyền thống. Điều này khiến đệ tử xuất gia và tại gia đều cảm thấy nức lòng và hăng hái học hỏi. Bằng sự lưu tâm đặc biệt về khoa sư phạm, Hòa thượng không chỉ có uy tín mà còn nhận được tình cảm mến mộ, nhưng đồng thời cũng khiến đệ tử phải tôn kính và sợ hãi. Mỗi lần Ngài xuất hiện tại Phật điện, giảng đường hoặc trên trai đường, không ai không giữ oai nghiêm và tế hạnh như luật định.
Chuyển đến làm Chủ hạ ở chùa Linh Quang, Ngài kiểm san bộ Đại Bảo Tích để báo đức đức Tổ Linh Quang. Đồng thời, Ngài được Tổ Vĩnh Nghiêm đặc trách giao phó công việc cắt nghĩa của bộ Phương Đẳng Bát Nhã và bộ Tứ Phận Hành Sự Sao, những bộ kinh Luật lớn. Điều này là một công việc nặng nề, đòi hỏi sự tinh thâm về văn nghĩa, sự thấu hiểu sâu sắc về giáo lý Phật đà, và tính nhẫn nại, chuyên cần để làm được.
Đối với các đệ tử tại gia, Hòa thượng Thích Trung Thứ cũng dành tâm huyết để săn sóc và dạy bảo. Ngài thành lập Ban tại gia Bồ Tát, truyền giới Bồ Tát cho thiện nam tín nữ thập phương, chỉ dạy họ hiểu nghĩa lý Phật pháp, biết quy củ của thiền gia, và hỗ trợ cho Tăng Ni trong hành trình tu hành của họ.
Hòa thượng cũng chú trọng đến công tác từ thiện xã hội, thành lập Ban Tế Thí. Mỗi vị “Bồ tát”, tùy tâm tùy lực cúng một số tiền và thực hiện công việc có ích với chân chính. Khi có thiên tai hoặc hoạn nạn, phần quỹ này được sử dụng để cứu giúp, tạo ra một phương tiện quý báu trong cộng đồng thiền gia ở thời kỳ đó.
Là một thiền sư, Hòa thượng luôn quan tâm đến việc hoằng pháp độ sinh. Ngài là một trong những Hòa thượng tích cực hoạt động cho việc thành lập Bắc Kỳ Phật Giáo Hội vào ngày 18 tháng 11 năm 1934 tại chùa Quán Sứ, Hà Nội. Hòa thượng Thích Trung Thứ đảm nhận chức vụ Kỳ Túc Đạo Sư để hỗ trợ hội trong các vấn đề hành chánh trong giai đoạn đầu thành lập. Hoạt động của hội rất mạnh mẽ và nhiều trường Phật học được mở tại các Tổ đình.
Ngài còn tham gia vào việc mở lớp Đại học Phật giáo tại chùa Bằng Sở ở Thái Hà ấp vào năm 1936, và Ngài được bổ nhiệm làm Đốc giáo. Chương trình học kéo dài trong ba năm, và sau khi tốt nghiệp, học viên có thể ở lại trường để nghiên cứu thêm trong 5 năm với chương trình Bác Học Cao Đẳng. Mặc dù trường mới mở và thiếu thốn nhiều thứ, Hòa thượng không chỉ thuyết giảng kinh pháp mà còn đóng góp tài vật, cúng dường cho Tăng Ni tu học, đồng thời lo cung cấp đầy đủ mọi thứ, tất cả đều vì đạo pháp và sự thành tựu của phong trào chấn hưng Phật giáo.
Về sau, khi chùa Bồ Đề ở Gia Lâm trở thành cơ sở trường Ni học, Hòa thượng tiếp tục chăm sóc để đảm bảo thành tựu của trường. Tháng chạp năm 1935, Ngài được mời làm chủ bút cho tờ Đuốc Tuệ, cơ quan ngôn luận truyền bá Phật giáo của hội, chịu trách nhiệm về nội dung bài vở. Tờ Đuốc Tuệ đã tụ họp nhiều Tăng Ni và nhà văn tân cựu học có khả năng viết bài, hoạt động đến trước Cách mạng tháng tám.
Ngoài việc tích cực tham gia hoằng pháp, đào tạo Tăng tài và bồi đắp thế hệ kế thừa thông qua các trường Phật học và diễn đàn Đuốc Tuệ, Hòa thượng Thích Trung Thứ còn có công đóng góp trong việc trùng tu một số chùa, đặc biệt là việc tiếp tục công trình trùng tu chùa Quán Sứ, đây là nơi đặt trụ sở của Hội Bắc Kỳ Phật Giáo.
Thời kỳ viên tịch
Vào ngày 25 tháng 02 năm Nhâm Ngọ (1942), Hòa thượng cùng một số đệ tử tổ chức cuộc hành hương chiêm bái thánh tích tại Yên Tử. Mặc dù sức khỏe của Ngài đã giảm sút do đã ngoài thất tuần, nhưng tinh thần quyết chí và lòng tin vẫn dẫn dắt Ngài. Trải qua Lân Động đến Hoa Yên, tình hình sức khỏe của Hòa thượng trở nên suy yếu, những người đệ tử bày tỏ sự lo lắng và đều đề nghị Ngài nghỉ lại tại Hoa Yên.
Tuy nhiên, Hòa thượng không chấp nhận và tiếp tục cuộc hành trình, vượt qua nẻo Ngọa Vân để đến Chân Cảnh. Khi lên đến đỉnh, Hòa thượng bất ngờ đứng ngơ ngác, không có bất kỳ lời nào. Đệ tử hối hả đưa Ngài về Hoa Yên để tìm thuốc men chữa bệnh và sau đó rước Ngài về chùa Sở để chăm sóc. Đến 3 giờ 30 sáng ngày 16 tháng 3, Hòa thượng Thích Trung Thứ viên tịch, hưởng thọ 71 tuổi đời, 50 tuổi hạ.
Tổ Bằng Sở, với uy danh lẫy lừng khắp Bắc Kỳ, để lại công đức không thể đong đếm. Đối với những thế hệ sau này, công hạnh của Hòa thượng không chỉ là một dấu ấn lớn trong phong trào chấn hưng Phật giáo miền Bắc mà còn là nguồn động viên lớn lao trong lòng mọi người. Mặc dù Ngài đã trở về nơi Tịnh cảnh, nhưng sự hồng ân và đóng góp của Ngài vẫn còn sống mãi trong tâm trí của những người tin đồ.
Tham khảo
- Tiểu sử danh tăng Việt Nam thế kỷ XX, tập 1, TT. Thích Đồng Bổn, thành hội Phật giáo TP. HCM. 1995