Thân thế
Tổ Minh Đăng Quang, có thế danh Nguyễn Thành Đạt, tự Lý Hườn, ra đời ngày 26 tháng 9 năm Quý Hợi (1923) tại làng Phú Hậu, tổng Bình Phú, quận Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long. Gia đình Ngài thuộc giai cấp trung nông, truyền thống hiền lương và trung hậu, luôn tôn trọng Phật pháp qua nhiều thế hệ.
Thân phụ của Ngài là ông Nguyễn Tồn Hiếu, và thân mẫu là bà Phạm Thị Nhàn. Ngài là con út trong năm anh em. Theo truyền thống gia đình, thân mẫu của Ngài mang thai Ngài tới tháng mười hai mới sinh. Mười tháng sau, bà đã yên bình qua đời mà không gặp phải bất kỳ căn bệnh nào.
Trong thời kỳ thiếu niên, Ngài đã thể hiện lối sống khác biệt so với các anh em trong gia đình và xã hội. Ngoài việc học và giúp đỡ thân phụ, Ngài thường xuyên dành thời gian đọc sách, nghiên cứu và suy ngẫm tại những nơi yên tĩnh. Với tính cách tĩnh lặng và sự giúp đỡ mọi người, Ngài được phép xây dựng một cái cốc nhỏ trong vườn nhà để làm nơi học tập và tu tâm. Sự điềm đạm và lòng tốt của Ngài đã thu hút sự quý mến từ mọi người xung quanh.
Cơ duyên tu hành
Năm Đinh Sửu (1937), khi mới 15 tuổi, Ngài đã xin phép thân phụ để xuất gia và học Đạo. Mặc dù Ngài đã trình bày rõ ý định và mục tiêu của mình, thậm chí đã bật mí về lý do và ý chí chân thực của mình, nhưng thân phụ vẫn ngăn chặn, cấm cản, lý do là Ngài còn quá nhỏ, không thể rời xa gia đình. Tuy nhiên, tại trái tim của ông cha ẩn sâu một tình cảm yêu thương, hy vọng rất lớn đặt trên vai đứa con út này, đứa con mà từ tâm tính đến cách hành xử đều được mọi người quý mến.
Không ngừng nỗ lực và thể hiện sự kiên nhẫn với quyết tâm xuất gia, Ngài đã làm mọi cách để làm thấu hiểu cho cha mình rằng Ngài có khả năng tự lập và đương đầu với mọi khó khăn trên con đường. Rồi, một đêm, khi những lời hứa về xuất gia của một người cha đầy tình thương vẫn còn vang vọng, Ngài đã âm thầm rời đi.
Điểm đầu tiên trong hành trình của Ngài là đất nước Campuchia, nơi đầy ắp chùa tháp lịch sử, biểu tượng cho tinh thần Phật giáo vĩ đại, với sự hiện diện của nhiều Tăng sĩ tận trách trì hành trì Phật Pháp.
Ngay từ ngày đầu tiên bước chân tới Campuchia, Tổ Minh Đăng Quang gặp một nhà sư người Việt gốc Khmer, nổi tiếng về kiến thức Phật đà. Ngài không ngần ngại quy ngưỡng và thọ giáo suốt thời gian tu học tại đây.
Năm Tân Tỵ (1941), sau bốn năm sống và học đạo ở nước khác, Tổ Minh Đăng Quang dốc lòng nghiên cứu tìm hiểu kinh tạng và đường lối y bát chân truyền của đức Phật, Ngài nhận thấy tương đối đầy đủ, cùng với năng lực bản thân, có thể trở về quê hương hành đạo. Do đó Ngài đã xin phép Thầy mình trở về Việt Nam.
Tuy nhiên, ngay sau khi về quê hương, Tổ Minh Đăng Quang phải đối mặt với những thách thức đầu tiên, bao gồm việc thanh toán một số nợ trần trụi để nhẹ nhàng đối mặt với những quả nhân quả. Ngài quyết định lập gia đình với cô Kim Huê, người đã từng giúp Ngài thoát khỏi nguy cơ tử thần. Tuy nhiên, chưa đầy một năm sau, cô Kim Huê từ trần.
Đầu năm Quí Mùi (1943), Tổ Minh Đăng Quang quyết định rời gia đình và trở lại con đường tu học. Ngài đặt ra mục tiêu nghiên cứu sâu rộng về đường lối của hai hệ phái Bắc Tông và Nam Tông. Tổ Minh Đăng Quang trở lại vùng Thất Sơn để tìm kiếm nơi u tịch, hợp với tâm cảnh và thực hành sở nguyện suy tầm của mình. Sau khi rời Thất Sơn, Ngài ngồi tham thiền an trú trong chánh pháp Bát Nhã tại ghềnh mũi Nai, và ở lại khi ấy Ngài tròn 22 tuổi.
Những đóng góp cho Phật giáo
Năm Giáp Thân (1944), Tổ Minh Đăng Quang đã ngộ chứng được lối đạo dung hòa, kết hợp truyền thống của hai hệ phái Bắc Tông và Nam Tông để tạo ra một phái Khất Sĩ mang đậm bản sắc Việt Nam. Ngày Rằm tháng Tư, Ngài bắt đầu truyền khai tư tưởng và lối đạo của mình tại chùa Linh Bửu, làng Phú Mỹ, tỉnh Mỹ Tho, trở thành vị Tổ đầu tiên của Giáo phái Khất sĩ Việt Nam.
Từ đó, Giáo phái Khất sĩ Việt Nam ngày càng lan rộng theo dấu chân vân du hành đạo của Tổ Minh Đăng Quang. Tất cả những bài giảng của Ngài trong giai đoạn khai hóa được ghi chép đầy đủ trong bộ Chân Lý, gồm 69 tiểu luận, nơi Ngài đã hòa nhập tinh hoa Phật pháp của cả hai hệ phái Nam và Bắc Tông theo trí tuệ trung đạo của giáo lý Phật đà. Điều quan trọng nhất là mục đích của hệ phái, làm cho học viên Khất Sĩ trở thành những người không gắn bó với vật dụng và tiền bạc, không có gia đình cố định, mỗi sáng ôm bình bát đi khất thực, không lưu lại ở một địa điểm cố định…
Buổi khai hóa ban đầu đã đạt được sự thành công mỹ mãn, đồng thuận và ủng hộ của những người tu học theo con đường mà Tổ Minh Đăng Quang đã mở ra. Trong thời gian ngắn, đã có hơn 100 vị xuất gia hành trì và trên chục ngàn Phật tử đã quy y thọ giới với Ngài. Từ miền Đông đến miền Tây Nam bộ, đã có trên 20 ngôi tịnh xá của hệ phái, điều này là minh chứng rõ ràng cho sức ảnh hưởng và ngưỡng mộ mạnh mẽ đối với chơn lý.
Hàng đệ tử
Trong số đệ tử ban đầu của Tổ Minh Đăng Quang, nhiều vị đã thành lập các đoàn du Tăng và hành trình tu học khắp miền Trung và miền Nam từ năm 1955 đến 1975. Có những người xuất sắc như Ngài Giác Tánh, Giác Chánh, Giác Nhu, Giác Tịnh, Giác An, Giác Nhiên, Giác Lý, Giác Đức…
Bên Ni giới, có các Ni trưởng Huỳnh Liên, Bạch Liên, Thanh Liên, Kim Liên, Ngân Liên, Chơn Liên…
Trong danh sách các giáo phẩm hiện nay, những người trực tiếp tham gia GHPGVN có các Hòa Thượng Giác Nhu, Từ Huệ. Trong Hội đồng Trị sự, có Thượng tọa Giác Toàn và Ni sư Ngoạt Liên.
Tán dương công hạnh
Trong suốt 10 năm kể từ ngày bắt đầu sơ cơ học Đạo tại chùa Linh Bửu, phương pháp hành trì và sự hướng dẫn trực tiếp của Tổ đã mang lại nhiều lợi ích cho cộng đồng Phật tử Nam bộ. Tuy nhiên, do tác động và ảnh hưởng quá lớn của hệ phái, cũng không tránh khỏi những thách thức từ phía những người ngoại đạo.
Ngày mùng 1 tháng 2 năm 1954, sau khi chuẩn bị một số điều cần thiết cho các đệ tử tiếp tục mục đích của mình, Tổ Minh Đăng Quang quyết định khởi hành để tiếp tục hoằng khai các du xứ. Tuy nhiên, trên đường từ Tịnh xá Ngọc Quang (Sa Đéc) đến Tịnh xá Ngọc Viên (Vĩnh Long) rồi đến Cần Thơ, Ngài đã bị người ngoại đạo bắt đi không rõ tung tích.
Sau hơn 40 năm vắng bóng của Tổ Minh Đăng Quang, những người thừa kế vẫn kiên trì chờ đợi, bảo vệ và phát triển những thành quả đã đạt được. Hệ phái Khất sĩ ngày càng vững chắc trong lòng Phật giáo Việt Nam. Hiện nay (1994), hệ phái này có hơn 250 ngôi Tịnh xá trải dài ở cả hai miền Nam và Trung Việt Nam, với hơn 1500 Tăng Ni xuất gia và nhiều chục vạn tín đồ.
Hằng năm, hàng môn đồ tứ chúng lấy ngày mùng 1 tháng 2 để kỷ niệm ngày Tổ vắng bóng, cùng nhau vân tập tại Tịnh Xá Trung Tâm (Sài Gòn) ôn lại những lời dạy và ghi nhớ công ơn khai sáng của Ngài. Để tỏ lòng thiết tha quí kính Ngài, các thế hệ tiếp nối tưởng niệm Ngài bằng tấm lòng trân trọng: Đức Tôn Sư Minh Đăng Quang.
Tác phẩm
Các tác phẩm Ngài đã viết trong quá trình hành đạo nay còn lưu lại :
- Bộ Chơn Lý
- Bồ Tát giáo.
Tham khảo
- Tiểu sử danh tăng Việt Nam thế kỷ XX, tập 1, TT. Thích Đồng Bổn, thành hội Phật giáo TP. HCM. 1995