Đại Việt Lam Sơn Chiêu lăng bi
大越藍山昭陵碑
Kí hiệu: 13473/13475/13476
Thác bản bia sưu tầm ở lăng vua Lê Thánh Tông xã Lam Sơn tổng Quảng An phủ Thọ Xuân tỉnh Thanh Hóa.
Thác bản 3 mặt, khổ 28 x 185cm và 185 x 270cm, gồm 58 dòng chữ Hán, toàn văn ước khoảng 2000 chữ, có hoa văn, không có chữ húy.
Niên đại: Cảnh Thống thứ 1 (1498).
Người soạn: 1/ Thân Nhân Trung 申仁忠; quê quán: xã Yên Minh huyện Yên Dũng (nay thuộc tỉnh Bắc Giang); học vị: thi Hội đỗ Hội nguyên, khi thi Đình được ban Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Kỷ sửu niên hiệu Quang Thuận thứ 10 (1469) đời vua Lê Thánh Tông; chức vị: Lại bộ Thượng thư, Chưởng Hàn lâm viện kiêm Đông các đại học sĩ, Nhập nội phụ chính, Quốc tử giám tế tửu. 2/ Đàm Văn Lễ 覃文禮; quê quán: xã Lãm Sơn huyện Quế Dương (nay huyện Quế Võ tỉnh Bắc Giang); học vị: Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Kỷ sửu niên hiệu Quang Thuận thứ 10 (1469) đời vua Lê Thánh Tông; chức vị: Lễ bộ thượng thư, Chưởng Hàn lâm viện sự. 3/ Lưu Hưng Hiếu 劉興孝; quê quán: xã Lương Hà huyện Vĩnh Ninh (nay thuộc huyện Vĩnh Lộc tỉnh Thanh Hoá); học vị: Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ đệ nhị danh (Bảng nhãn) khoa Tân sửu niên hiệu Hồng Đức thứ 12 (1481) đời vua Lê Thánh Tông; chức vị: Thượng thư kiêm Đông các Đại học sĩ, Chưởng Hàn lâm viện sự.
Người viết: Nguyễn Đức Tuyên 阮德暄; chức vị: Trung thư giám trung thư Xá nhân.
Người khắc: Phạm Dần 范寅; chức vị: Ngự dụng giám san Thư cục Cục chính.
Người phụng triện: Tô Ngại 蘇礙.
Chủ đề:
– Hành trạng, công tích nhân vật.
– Thơ văn.
Tóm lược nội dung:
Bia ghi về tiểu sử vua Lê Thánh Tông. Vua húy là Tư Thành, hiệu Thiên Nam Động Chủ, là con bà Quang Thục Hoàng Thái hậu Ngô Thị Ngọc Dao. Vua là người thông minh, hùng tài đảm lược, giỏi cả văn võ. Khi lên làm vua, Lê Thánh Tông đã có công rất lớn đối với dân tộc trong việc mở mang và giữ gìn bờ cõi, sửa sang luật pháp, chế định bản đồ, khuyến khích nông tang… Ông ở ngôi 38 năm thì mất, được truy tôn miếu hiệu Sùng Thiên Quảng Vận Thuần Hoàng đế.
Ghi chú: Thác bản đánh nhảy số không có số 13474.