“Ai về thăm đất quê em
Mà lên núi Dạm xem tiên đánh cờ”
(Ca dao)
Tên và vị trí địa lý
Chùa Dạm (Thần Quang tự) được xây dựng ven sườn núi phía Nam của dải núi Dạm, thuộc địa bàn thôn Tự Thôn, xã Nam Sơn, thành phố Bắc Ninh; cách trung tâm thành phố 7km và nằm vị trí phía Đông Bắc của tỉnh Bắc Ninh. Quy mô to lớn của chùa Dạm đã được nhân gian truyền tụng tới ngày nay nhưng tiếc thay, Đại danh tự thời Lý giờ chỉ còn là phế tích ngập chìm trong cỏ dại.
Lịch sử và nhân vật
Theo Việt sử lược, Đại Việt sử ký toàn thư, Đại Nam nhất thống chí, Lịch triều hiến chương loại chí có: Năm Quảng Hựu thứ 1 (1085) Thái hậu Ỷ Lan đi chơi, thấy nơi đây có núi sông cảnh đẹp và có ý muốn xây dựng tháp ở đó. Đến năm Quảng Hựu thứ 2 (1086), vua Lý Nhân Tông cho xây dựng chùa trên núi Đại Lãm. Chùa được triều đình nhà Lý cho xây dựng với quy mô 8.000m2 trong suốt 8 năm liền. Năm 1087, vua đến thăm chùa, thiết yến bầy tôi, thân làm bài thơ Lãm Sơn dạ yến. Năm 1094, chùa làm xong, vua đến thăm và ban tên chữ cho chùa và đến năm 1105 cho xây dựng 3 cây tháp đá ở chùa Đại Lãm.
Với sự đóng góp của nhân dân địa phương, đền và đền mới được xây dựng vào năm 1996. Với ba gian điện nhỏ, tượng thần Phật (ở nền thứ ba) và ba gian đền (ở nền thứ tư) thờ hai pho tượng cổ vật thoát lại là tượng Nguyên phi Ỷ Lan và vua Lý Nhân Tông cùng các mục còn sót lại khi xưa.
Kiến trúc cảnh quan
Chùa xưa có quy mô kiến trúc to lớn, với 4 lớp nền giật cấp bám lấy độ cao của núi Dạm. Các lớp nền đều được kè đá tảng lớn để chống xói lở. Các vách đá của các lớp nền cao từ 5-6m, mỗi viên đá rộng 0,50-0,60m. Nối các tầng nền với nhau là các bậc thềm lát đá. Trên các tầng nền có gạch ngói thời Lý hoa văn hình rồng, phượng, sen dây, cúc dây; những chân cột bằng đá (0,75m x 0,75m) chạm nổi những cánh sen rất nghệ thuật. Tại tầng nền thứ hai từ dưới lên (khoảng giữa cửa chùa) có 2 khối đất hình nấm nằm đối diện nhau, đều được kè đá chạm văn hình sóng nước nhô cao (thủy ba). Cột đá chùa Dạm có kết cấu gồm hai phần:
+ Ở dưới là khối hộp hình vuông gắn với lớp đá mạ
+ Ở trên là khối trụ tròn có đường kính 1,5m.
Đây được xem là công trình điêu khắc kỳ vĩ khó tin với nghệ thuật chạm khắc đôi rồng đuôi giao nhau, thân uốn lượn mềm mại quanh cột, đầu rồng nghểnh cao chầu vào viên ngọc đạt đến mức độ tinh xảo. Kiến trúc cột đá chính là nét đặc trưng điển hình mỹ thuật thời Lý, góp phần thể hiện sức mạnh triều đại đầu tiên đặt nền móng cho kỷ nguyên dân tộc tự chủ và hưng thịnh về mọi mặt.
Sự kiện và lễ hội
Hàng năm, cứ đến đầu tháng 9 Âm lịch, người dân xã Nam Sơn, thành phố Bắc Ninh lại nô nức chuẩn bị cho Lễ hội truyền thống chùa Dạm. Hội chùa Dạm được tổ chức trong 3 ngày từ mùng 7 đến mùng 9/9. Theo dòng người đi hội, men theo sườn núi Dạm, chúng tôi đến thăm ngôi chùa cổ, xem lễ rước kiệu, vui hội chùa. Trong đó ngày lễ chính được tổ chức vào ngày mùng 8 thu hút đông đảo du khách tới trẩy hội. Trong những ngày này, 4 làng quanh chùa Dạm đều tất bật, tưng bừng mở lễ hội.
Tham khảo
- https://bacninh.gov.vn/news/-/details/20182/tray-hoi-chua-dam#
- http://bacninh.tintuc.vn/goc-bac-ninh/chua-dam-chua-hang-dau-thoi-ly.html
- https://vuonhoaphatgiao.com/tu-vien/cac-chua-trong-nuoc/cac-chua-o-bac-ninh/chua-dam-bac-ninh/.
_____________________
Các ngôn ngữ khác
Tiếng Anh (English)
Dam Pagoda (Than Quang Tu), located on the southern slope of the Dam mountain range, in Tu Thon hamlet, Nam Son commune, Bac Ninh city, approximately 7km northeast of the city center of Bac Ninh province. The grand scale of Dam Pagoda has been recounted in local folklore, but today, it remains as scattered ruins amidst the forest.
According to historical records such as Viet su luoc, Dai Viet su ky toan thu, Dai Nam nhat thong chi, and Lich trieu hien chuong loai chi, in the first year of Quang Huu era (1085), Queen Y Lan was captivated by the scenic beauty of this place and decided to build a pagoda tower here. In the second year of Quang Huu era (1086), King Ly Nhan Tong approved the construction of Dam Pagoda on Dai Lam mountain. The Ly dynasty constructed the pagoda over 8,000 square meters in a span of 8 years. In 1087, the king visited the pagoda and composed the poem “Lam Son Night Banquet”. By 1094, the pagoda was completed, and the king bestowed its name and inscriptions, while also erecting three stone towers at Dai Lam.
With the contributions of the local community, the pagoda and new shrines were rebuilt in 1996. Featuring three main halls and altars with ancient statues, including those of Queen Y Lan and King Ly Nhan Tong, the site preserves relics from ancient times.
Tiếng Trung (Chinese)
大岩寺(又称为神光寺),位于北宁市南山乡的土村南松,大岩山南坡,距离市中心7公里,北宁省东北方向。大岩寺的规模曾经是民间传说的重要一部分,但遗憾的是,如今它只是丛林中杂乱的废墟。
据《越史略》、《大越史记全书》、《大南一统志》和《历朝宪章类志》等历史文献记载,在庆佑元年(1085年),太后兰玉在这里看到了优美的山水风光,决定在此建造寺塔。庆佑二年(1086年),李仁宗皇帝批准在大岩山上修建寺庙。该寺庙由李朝皇室在8年内建成,占地达8000平方米。1087年,皇帝亲临寺庙,撰写了《岚山夜宴》诗文。1094年,寺庙竣工,皇帝为寺庙命名并题字,同时在大岩山建造了三座石塔。
1996年,经由地方社区的贡献,寺庙和神殿得以重建。寺庙内设有三个殿宇,祭坛安放有佛像(在第三层)以及三个神殿(在第四层),分别供奉Ỷ Lan和李仁宗皇帝的雕像以及其他古代遗物。
Tiếng Pháp (French)
Le temple Dam (Than Quang Tu), situé sur le versant sud de la chaîne de montagnes Dam, dans le hameau de Tu Thon, commune de Nam Son, ville de Bac Ninh, à environ 7 km au nord-est du centre-ville de la province de Bac Ninh. La grande échelle du temple Dam est racontée dans les traditions populaires, mais aujourd’hui, il ne reste que des ruines dispersées au milieu de la forêt.
Selon des documents historiques tels que le Viet su luoc, le Dai Viet su ky toan thu, le Dai Nam nhat thong chi et le Lich trieu hien chuong loai chi, en la première année de l’ère Quang Huu (1085), la reine Y Lan fut captivée par la beauté pittoresque de cet endroit et décida d’y construire une tour de temple. En la deuxième année de l’ère Quang Huu (1086), le roi Ly Nhan Tong approuva la construction du temple sur la montagne Dai Lam. La dynastie Ly a construit le temple sur une superficie de 8 000 m2 en 8 ans. En 1087, le roi visita le temple et composa le poème “Banquet nocturne à Lam Son”. En 1094, le temple fut achevé, le roi lui donna un nom et fit graver des inscriptions, tout en érigeant trois tours de pierre à Dai Lam.
Grâce aux contributions de la communauté locale, le temple et de nouveaux sanctuaires furent reconstruits en 1996. Avec trois salles principales et des autels avec des statues anciennes, dont celles de la reine Y Lan et du roi Ly Nhan Tong, le site préserve des reliques depuis l’antiquité.