Tên gọi
Đền Cửa Ngòi còn có tên gọi khác là đền Cô đôi, đền Ngòi Ngoang thuộc địa phận thôn Quyết Tiến 12, xã Đại Minh, huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái. Diện tích khoanh vùng bảo vệ: 1.016,8m2.
Lịch sử hình thành
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX vùng đất Đại Minh nằm trên tuyến giao thông đường thủy kết nối các vùng đất trên dọc tuyến đường từ vùng Hoa Nam (Trung Quốc) về Thăng Long. Thời kỳ này vùng Yên Bình có nhiều rừng tự nhiên với các loại lâm thổ sản quý hiếm, người dân khai thác gỗ, nứa đóng thành bè, mảng vận chuyển theo dòng sông Chảy về xuôi, rồi lại mang hàng hóa lên trao đổi buôn bán, tạo nên tuyến giao thông huyết mạch trong vùng, hình thành nên các điểm chợ sầm uất.
Trong quá trình giao thương hàng hóa, nhận thấy khí chất linh thiêng của vùng đất này, các thương nhân và nhân dân trong vùng đã xây dựng ngôi miếu trên mảnh đất ven bờ sông – nơi giao nhau giữa sông Chảy và suối ngòi Ngà, lấy tên là miếu Cửa Ngòi. Trải qua thời gian, miếu ngày càng thu hút đông đảo du khách đến chiêm bái, tạo vị thế ngày càng cao trong lòng nhân dân. Miếu dần phát triển lên thành đền, trở thành điểm sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng của nhân dân, là ngôi đền linh ứng khi nhân dân cầu đảo. Di tích đền Cửa Ngòi được xây dựng từ thời kỳ đó, gắn liền với sự tồn tại và phát triển của chợ Ngọc, chợ Ngà bên bờ sông Chảy – là nơi buôn bán hàng hóa nổi tiếng ở vùng Yên Bình trước đây.
Năm 2000, nhân dân xây dựng lại đền, có kiến trúc nhà cấp IV kiểu tường hồi bít đốc rộng khoảng 12m2, mái lợp ngói đỏ.
Quyết định số 131/QĐ-UBND ngày 20/01/1017, của Ủy ban nhân dân tỉnh Yên Bái công nhận đền Cửa Ngòi là Di tích lịch sử – văn hóa cấp tỉnh.
Truyền thuyết
Đền Cửa Ngòi thờ Quỳnh Hoa và Quế Hoa công chúa. Tương truyền công chúa Quỳnh Hoa là hóa thân của mẫu Thượng Thiên (Liễu Hạnh). Do phạm lỗi làm vỡ chiếc ly ngọc quý nên bị giáng xuống trần gian đầu thai vào nhà họ Lê. Khi phu nhân Lê Thái Công mang thai gần đến kỳ sinh nở mắc phải bệnh suy nhược, chỉ thích ăn hoa quả, không có thuốc men nào chữa khỏi. Một hôm, có một vị đạo sĩ đến xin chữa bệnh cho phu nhân. Trước ban thờ, người đạo sĩ đọc mấy câu thần chú rồi vứt chiếc búa ngọc xuống đất. Lê Thái Công bỗng ngã ra bất tỉnh, nằm mơ mình được lên thiên đình dự tiệc do Ngọc Hoàng khoản đãi và biết việc công chúa Quỳnh Hoa bị đày xuống hạ giới. Sau khi tỉnh giấc thì hay tin phu nhân vừa hạ sinh được một cô con gái. Thái Công sung sướng đặt tên con là Giáng Tiên. Lớn lên Giáng Tiên càng xinh đẹp hơn, rất giỏi văn thơ, ca hát. Sau đó nàng về trời nhưng do chưa hết hạn đi đày nên Ngọc Hoàng bắt trở lại thế gian. Bà quay về và đi khắp thế gian để cứu giúp dân lành, dạy dân cách khai hoang, trồng cấy, chữa bệnh… được nhân dân tôn kính và lập đền thờ.
Quế Hoa công chúa là hóa thân của mẫu Thượng Ngàn. Vào thời Hùng Định Vương, nhà vua có một hoàng hậu tên là An Nương mang thai mãi không đẻ, mọi người cũng thấy lo sợ. Đến năm thứ ba, một hôm hoàng hậu đi chơi trong rừng bất ngờ đau đẻ ập đến, những người theo hầu không biết lo liệu ra sao. Hoàng hậu đau quá chỉ còn biết ôm chặt lấy thân cây quế, cuối cùng hạ sinh được một cô con gái nhưng vì quá kiệt sức nên hoàng hậu qua đời, để lại cho nhà vua cô con gái yêu quý, đặt tên là Mỵ Nương Quế Hoa. Lớn lên Mỵ Nương Quế Hoa vừa ngoan ngoãn vừa xinh đẹp, tới tuổi cập kê mà không màng tới chuyện chồng con, chỉ luôn nhắc tới người mẹ yêu quý đã sinh ra mình.
Sau khi biết rõ ngọn ngành, công chúa quyết chí đi vào rừng tìm mẹ, không từ gian nan nguy hiểm. Trên đường đi nàng đã chứng kiến những cảnh tượng đói nghèo cơ cực của dân làng trong những bản làng xơ xác. Những lúc như vậy công chúa Quế Hoa luôn trăn trở tìm cách nào đó để giúp những người dân lành lam lũ cực khổ kia. Một đêm giữa rừng núi âm u, nàng linh cảm thấy hơi ấm của người mẹ, nàng thốt lên gọi: “Mẹ ơi… Mẹ ơi…”. Như đồng cảm được với nỗi lòng của nàng, một ông tiên bỗng hiện lên trao cho nàng phép thần thông, có thể dời núi lấp sông, cứu giúp dân lành. Công chúa Quế Hoa đã cùng mười hai thị nữ dùng phép thuật dời núi khai sông, đưa nước tưới về cho đồng ruộng tươi tốt, mang lại cuộc sống no ấm cho dân làng. Sau đó có một đám mây ngũ sắc hạ xuống đón công chúa Quế Hoa và mười hai thị nữ bay về trời. Nhân dân lập đền thờ tưởng nhớ công ơn của bà.
Ngoài ra đền Cửa Ngòi còn thờ các vị thần khác như Ông Ngũ Hổ, thần Thổ Công… các vị thần trên luôn hiển linh phù hộ, cứu giúp dân chúng mỗi khi gặp khó khăn hoạn nạn.
Kiến trúc
Trong đền bài trí như sau: Ban thờ mẫu Thượng Thiên (Liễu Hạnh), mẫu Thượng Ngàn và mẫu Thoải. Phía dưới ban thờ đặt bát hương thờ Ngũ Hổ. Phía trước hậu cung có bức đại tự “Hải Đức Sơn Công” (Công đức lớn tựa sông núi). Trước cửa vào có bức đại tự: Thánh mẫu linh từ.
Hai bên hai câu đối: Bên trái – Đại Địa Sơn Khê Trầu Ấp Miếu; Bên phải – Minh Sơn Thánh Mẫu Giáng Xuân Đài.
Lễ hội
– Lễ cầu an đầu năm (mùng 7 tháng giêng).
– Lễ Giỗ mẫu (ngày 12 tháng 8).
– Lễ Tất niên (ngày 23 tháng Chạp).
Đền Cửa Ngòi là thiết chế tín ngưỡng có từ cuối thế kỷ XIX. Từ khi di tích được xây dựng trở thành điểm sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng của nhân dân trong vùng, là niềm tự hào của nhân dân Đại Minh, nơi lưu giữ kế thừa và phát huy nét văn hóa cổ truyền của dân tộc Việt Nam.
Tham khảo
- http://www.didulich.net/gia-tri-lich-su/den-cua-ngoi-yen-bai-noi-tho-phung-quynh-hoa-23458
- https://yenbai.gov.vn/noidung/tintuc/Pages/chi-tiet-tin-tuc.aspx?ItemID=19292&l=Tintrongtinh
- https://bvhttdl.gov.vn/yen-bai-den-cua-ngoi-don-bang-xep-hang-di-tich-lich-su-van-hoa-cap-tinh-624390.htm
- https://cdspvinhlong.edu.vn/den-cua-ngoi-yen-bai-noi-tho-phung-quynh-hoa-cong-chua-va-que-hoa-cong-chua-thoi-hung-vuong/
- https://www.yenbai.gov.vn/noidung/tintuc/Pages/chi-tiet-tin-tuc.aspx?ItemID=148&l=Ditichcaptinh