Viên Minh Tháp

Thông tin cơ bản

Tháp Viên Minh được dựng ở sườn núi chùa Quảng Nghiêm (thị trấn Phú Thứ – Kinh Môn – Hải Dương) vào năm 1738, sau khi Từ Sơn Hành Nhất viên tịch, ông là đệ tam tổ của thiền phái Tào Động tại Việt Nam.

Từ Sơn – Như Sơn từng trụ trì chùa Tường Quang, chùa Hồng Phúc Hòe Nhai nhưng căn cứ tháp Viên Minh thì ông xây dựng và trụ trì chùa Quảng Nghiêm. Tháp Viên Minh tại chùa Quảng Nghiêm đã ghi lại thân thế và sự nghiệp của ông. Tháp nhỏ, cao khoảng hơn 4m, được dựng bằng đá xanh, gồm 3 tầng chưa tính tu di tọa ở dưới. Tháp hiện ở phía sau bên trái chùa Quảng Nghiêm, bên trên sườn núi. Trên tháp khắc ba chữ Viên Minh tháp 圓明塔, ngoài cửa tháp có đôi câu đối nhỏ, nội dung:

儼儼證三身並乾坤如在
陀陀圓一性超日月長明

Nghiễm nghiễm chứng tam thân, tịnh càn khôn như tại;
Đà đà viên nhất tính, siêu nhật nguyệt trường minh.

Ngoài ra, trong lòng tháp cũng có bài vị, ghi lại nội dung như sau: Viên Minh tháp Tăng thống Tịnh Giác Đại hòa thượng Hành Nhất thiền sư Tặng phong Phổ Tế Hóa Sinh Bồ tát thiền tọa hạ圓明塔僧統凈覺大和尚行一禪師贈封普濟化生菩薩禪座下. Thực chất, bài vị này và bài vị ở chùa Phật Tích có nội dung giống nhau. Tuy nhiên, ngoài điểm khác biệt là hai tháp ở Phật Tích và Quảng Nghiêm có kích cơ khác nhau thì trên thân tháp Viên Minh tại chùa Phật Tích cũng không hề có bài văn ghi lại công tích thiền sư. Điều đó cho thấy tháp chùa Phật Tích chỉ là thờ vọng mà thôi.

Bài minh trên tháp Viên Minh tại chùa Quảng Nghiêm được khắc chân phương, chữ viết rõ ràng, đã có một số chữ bị mờ hoặc vỡ do năm tháng. Tuy nhiên bài minh gần như còn nguyên vẹn nội dung. Với chiều cao khoảng gần 1 m, và chiều ngang cũng gần như thế với phần trên nhỏ hơn theo hướng chóp tháp.

Nội dung văn bia tháp Viên Minh

Chữ nho

圓明塔

誌塔

夫玄空惟一,妄境寔繁。稟惟一而萬化生成;隨萬化而惟一元照。無形可測,無語可諳。無形而形遍大千;無語而語週億剎。

豈謂元明性海,澄徹真空而為不覺妄,風吹成識;浪彼覺皇出世,隱耀雙林而我師生時,韜光八識。育王崇佛建塔;弟子事師浮屠。只為:心生三事,本敦厚之情懷;德報四恩,築義仁之基址。於是,旁尋良匠,卓定鎡基。構翠石而合金釘;誌機緣而鑴寶塔。粵有越國真定艾鄉,師蔣宗,歲辛酉,童真入道,冠弱出家,首眾斗山得法於真融和尚。君王龍筆旨傳為禪典繼燈。

屬潛龍講說於乾初,世珍出眾;

會旭日重光於離照,曰位為師。

由是皈依者眾,供養日多。以無量之貨錢,興無量之功德。時年甲辰肇造廣嚴寺。是寺地勢有情,塵囂不到。禪扃雖小,而有廣大之基圖;勝景可因,含無窮之趣味。囑遺法子而住持焉。所迨歲惟丁巳,時屬仲冬師,當壽五十七之年而化於一十四之日,申時圓寂,午歲闍維。於是法子收取舍利,一建塔于廣嚴寺左;一建塔於佛跡寺。耽於戊午年起工,至己未年完好。此塔此山,相億萬年之峙;千載之下,足如斯,目如斯,覩踪跡之如斯。維禪師之德業,愈久愈光。道場之芳名與禪師並傳也

旹永佑四年三月穀日造

法子首座字性燭建塔撰文記

唐豪縣中立社寺丞范嘉樂字如蘭恭寫

Phiên âm

Chí tháp

Phù huyền không duy nhất, vọng cảnh thật phồn. Bẩm duy nhất nhi vạn hoá sinh thành, tuỳ vạn hoá nhi duy nhất nguyên chiếu. Vô hình khả trắc, vô ngữ khả am. Vô hình nhi hình biến đại thiên; vô ngữ nhi ngữ chu ức sát. Khởi vị: nguyên minh tính hải, trừng triệt chân không nhi vi bất giác vọng. Phong xuy thành thức. Lãng bỉ giác hoàng xuất thế, ẩn diệu song lâm nhi ngã sư sinh thời thao quang bát thức. Dục vương sùng phật kiến tháp; Đệ tử sự sư phù đồ. Chỉ vi: tâm sinh tam sự, bản đôn hậu chi tình hoài; đức báo tứ ân, trúc nghĩa nhân chi cơ chỉ. Ư thị, bàng tầm lương tượng, trác định tư cơ. Cấu thuý thạch nhi hợp toàn đinh; chí cơ duyên nhi huề bảo tháp. Việt hữu Việt Quốc Chân Định Ngải Hương, sư Tưởng tông. Tuế tân dậu, đồng chân nhập đạo, quán nhược xuất gia, thủ chúng đẩu sơn, đắc pháp ư Chân Dung hoà thượng. Quân vương long bút chỉ truyền vi Thiền điển kế đăng. Chúc tiềm long giảng thuyết ư càn sơ, thế trân xuất chúng. Hội húc nhật trùng quang ư ly chiếu, viết vị vi sư. Do thị, quy y giả chúng, cúng dưỡng nhật đa, dĩ vô lượng chi hoá tiền; Hưng vô lượng chi công đức. Thời niên Giáp Thìn triệu tạo Quảng Nghiêm tự. Thị tự, địa thế hữu tình, trần hiêu bất đáo. Thiền quynh tuy tiểu nhi hữu quảng đại chi cơ đồ; thắng cảnh khả nhân, hàm vô cùng chi thú vị. Chúc vị pháp tử nhi trụ trì yên. Sở đãi tuế duy Đinh Tỵ, thời chúc trọng đông, sư thọ đương ngũ thập thất chi niên, ư nhất thập tứ chi nhật thân thời, viên tịch. Ngọ tuế xà duy. Ư thị, pháp tử thu thủ xá lợi, nhất kiến tháp vu Quảng Nghiêm tự tả. Nhất kiến tháp ư Phật Tích tự. Đam ư mậu ngọ niên khởi công, chí Kỷ Mùi niên hoàn hảo. Thử tháp thử sơn tương ức vạn niên chi kỳ, thiên tải chi hạ, thị như tư, mục như, tư đổ tung tích chi như tư. Duy thiền sư chi đức nghiệp, dũ cửu dũ quang. Đạo tràng chi phương danh dữ thiền sư tịnh truyền dã.

Thời Vĩnh Hựu tứ niên tam nguyệt cốc nhật tạo

Pháp tử thủ toạ tự Tính Chúc kiến tháp soạn văn ký

Đường Hào huyện Trung Lập xã tự thừa Phạm Gia Lạc tự Như Lan cung tả”

Tạm dịch

Ghi trên tháp.

Ôi! Huyền không chỉ duy nhất, mà vọng cảnh thật nhiều[1]. Bẩm thụ duy nhất mà muôn biến hóa được sinh thành; Tùy theo muôn biến hóa mà duy nhất được nguyên sơ chiếu tỏ[2]. Không có hình nhưng có thể lường, không có lời nhưng có thể hiểu. Không có hình mà hình khắp cõi đại thiên[3]; không có lời mà lời trùm muôn kiếp[4]. Há gọi là biển tính sáng ngời[5], thấu triệt[6] chân không[7] mà chẳng hiểu sai lầm, gió thổi thành thức[8]; Như thế, Giác Hoàng[9] hiện thế gian, ẩn sáng ngời dưới cây Song Lâm[10] mà khi thầy ta sinh ra đã ẩn ngầm ánh sáng tám thức[11]. A Dục xây tháp sùng kính Phật[12]; Đệ tử thờ thầy dựng phù đồ[13]. Chỉ là: Lòng sinh ba việc[14], tâm tình hàm chứa đôn hậu; đức báo bốn ân[15], dựng xây nền móng nhân nghĩa. Vậy nên, tìm khắp thợ giỏi, định sẵn máy bào, xây đá biếc mà hợp đinh vàng; ghi chép cơ duyên mà khắc vào bảo tháp. Nay có sư thầy họ Tưởng, người làng Ngãi, Chân Định nước Việt, tuổi Tân Dậu[16], đồng chân nhập đạo[17], đến tuổi nhược quán[18] xuất gia, tài như thái sơn bắc đẩu đứng đầu tăng chúng[19], đắc pháp với Chân Dung Hòa thượng[20]. Nhà vua long bút sắc chỉ truyền làm sách Thiền uyển kế đăng. Từ khi thuộc vận rồng ẩn giảng thuyết ở đầu quẻ Càn đã là bậc trân quý trên đời hơn người[21]. Gặp mặt trời thêm sáng[22], chiếu rọi của quẻ Li mà tên gọi là sư[23]. Do đó, người quy y thêm đông, kẻ cúng dàng ngày càng lắm. Dùng vô lượng tiền bạc để hưng sùng vô lượng công đức. Vào năm Giáp Thìn (1724) xây dựng chùa Quảng Nghiêm. Chùa này địa thế hữu tình, bụi trần không đến. Cảnh thiền tuy nhỏ, nhưng có cơ đồ rộng lớn; thắng. cảnh đáng dựa, mà chứa thú vị vô cùng. Di chúc cho pháp tử mà trụ trì ở đấy. Vừa đến giờ thân[24], ngày 14 tháng giữa mùa đông năm Đinh Tỵ (1737), sư viên tịch, hưởng thọ 57 tuổi[25]. Năm Ngọ (1738) làm lễ xà duy[26]. Sau đó, pháp tử thu xá lị, dựng một tháp ở bên trái chùa Quảng Nghiêm; dựng một tháp ở chùa Phật Tích. Lại khởi công vào năm Mậu Ngọ (1738) đến năm Kỉ Mùi (1739) thì hoàn hảo. Tháp đấy, núi đấy, để ngời ngợi muôn vạn năm; nghìn năm về sau, đúng như thế, nhìn thấy như thế, xem dấu tích còn như thế. Riêng, Đức nghiệp của thiền sư, càng ngày càng sáng tỏ. Đạo tràng thơm danh với thiền sư cùng lưu truyền.

Tạo ngày tốt tháng 3 năm Vĩnh Hựu thứ 4 (1738)

Pháp tử Thủ tòa tự là Tính Chúc, dựng tháp soạn văn.

Người ở xã Trung Lập huyện Đường Hào, chức Tự thừa là Phạm Gia Lạc, tự Như Lan kính viết.

Chú thích

  • (*) Viện Nghiên cứu Hán Nôm.
  • [1] Câu này: ý chỉ cõi huyền diệu, tiêu dao, đắc đạo chỉ có một mà thôi, mà cảnh giả  tưởng, cảnh không thật, không tốt đẹp thì lại nhiều.
  • [2] Nguyên chiếu: chúng tôi tạm dịch, nguyên hiểu là chiếu soi từ  cái nguyên sơ, cái ban đầu, cái bản lai diện mục của ….vấn đề.
  • [3] Đại Thiên: chính là tam thiên đại thiên thế giới. Duy Ma cật kinh Phật Quốc phẩm viết: 三轉法輪于大千ba lần chuyển pháp luân ở cõi Đại thiên.
  • [4] Ức sát: Muôn …. Chúng tôi dịch thoát thành nghĩa gần là MUÔN KIẾP. Đại Phương quảng Phật hoa nghiêm kinh có câu: 億剎塵等劫諸佛出興世 Ức sát trần đẳng kiếp, chư Phật xuất hưng thế – Muôn kiếp cõi trần thế, các Phật ra hưng đời. Từ “ức sát” dùng trong Nội điển rất nhiều, và phần nhiều theo nghĩa muôn kiếp.
  • [5] Tính hải: Thí dụ lí tính chân như vô cùng sâu rộng như biển, cho nên gọi là tính hải. Đấy là cảnh giới pháp thân của Như lai vậy. Bài tựa sách Tây vực kí viết: 廓群疑于性海,啟妙覺于迷津rộng mở nghi ngờ ở biển tính, mở ra diệu giác với bến mê….
  • [6] Trừng triệt: trong veo thấy rõ.
  • [7] Chân không: 1. niết bàn tiểu thừa. Không phải sai lầm, ngụy giả là chân, li rời hiện tướng cho nên gọi là Không. 2. Lại có nghĩa là: Lí tính chân như xa rời tất cả cái tướng hiển hiện thấy của mê tình,. 3. Đối với phi hữu diệu hữu, phi không của không chính là Chân không. Đây theo nghĩa thứ 2.
  • [8] Thức: chỉ nhận thức siêu việt. Đây có thể là điển tích Huệ Năng giảng về gió động hay phướn động trong Đàn Kinh. Gió thổi động mà nhận thức?!?!?
  • [9] Giác hoàng: Phật Thích ca mâu ni.
  • [10] Song lâm: 1. chỉ nơi Thích ca nhâp Niết bàn. 2.  Chỉ Thích ca mâu ni. 3. Chỉ tự viện. Đây chỉ nơi Phật nhập niết bàn dưới cây Sala – Song thụ.
  • [11] Bát thức: thuật ngữ Pháp tướng tông Phật giáo, được hiểu gồm các  thức: nhãn (mắt), nhĩ (tai), tỵ (mũi), thiệt (lưỡi), thân (bản thân), ý (ý thức) cùng với thứ thứ 7 Mạt na thức nghĩa là giữ gìn cái thấy của ta và thứ thứ 8 A lại da thức nghĩa là tàng trữ, tàng trữ tất cả các pháp, tức là thần thức, tính linh, hợp là gọi là tám thức. Tổng cộng có 8 thức.
  • [12] Dục vương: A-dục vương 阿育王 aśoka: Hoàng đế Ấn Độ, trị vì Đế quốc Khổng Tước (273- 232 trCN). A-dục kiệt xuất, cai trị phần lớn vùng Nam Á,. Ủng hộ Phật giáo, ông lập nhiều bia đá về cuộc đời Phật Thích-ca Mâu-ni, và theo truyền thống Phật giáo, tên ông gắn liền với việc lưu truyền Phật giáo.
  • [13] Phù đồ: là một cách dịch khác của từ Phật Đà. Nên còn gọi là dạo Phù Đồ. Về sau gọi theo nghĩa là tháp thờ Phật
  • [14] Tam sự: ba việc. Tam sự nhiều nghĩa. Chúng tôi chọn những nghĩa gần với nội dung. 1. Tam sự là chỉ tu tập giữ Thân – khẩu – ý. 2. Tam sự chỉ: 1 – Bố thí vô tận: quả vị Bồ tát thích việc Bố thí, không hiềm tài của ít nhiều thậm chí cả tính mệnh, tâm không  hề chán, như thế là bố thí vô tận. 2- trì giới vô tận: giữ giới cấm giới, không làm trái, không từ bỏ; thấy người bỏ giới thì khuyên nhủ, thương cảm, thấy người giữ giới thì kính trọng tôn sùng, lấy giới pháp mà truyền dạy mọi người mà lòng không hề mệt chán, như thế là giữ giới vô tận. 3- bác văn vô tận: Bồ tát nghe pháp như thế, thì phụng làm theo, muốn chuyển hóa, bác học khắp kinh điển, cùng với thế gian không chán lòng, như thế  là bác văn vô tận.
  • [15] Tứ ân: chỉ ân cha mẹ (gia đình), ân chúng sinh (xã hội), ân đất nước (quốc gia) và ân Tam bảo (tông giáo).
  • [16] Năm Tân Dậu, theo bản in Kế đăng lục năm 1734, thì năm Tân Dậu phù hợp với tuổi của Như Sơn là 1681.
  • [17] Đồng chân nhập đạo, tức người tu theo đạo Phật khi chưa lập gia đình!
  • [18] Quan nhược: theo Khúc Lễ trong Lễ Kí thì 二十曰弱,冠, 20 (tuổi) gọi là nhược, quan.
  • [19] Sơn đẩu: chỉ  cao như núi Thái Sơn, sáng tỏ như sao Bắc Đẩu, chỉ ngôi vị cao sang.
  • [20] Chân Dung hòa thượng: sư Chân Dung hiệu Tông Diễn (1640-1709) là tổ đời thứ 2 dòng Tào Động tông miền bắc Việt Nam thế kỉ XVII-XVIII. Ông đắc pháp với thiền sư Thủy Nguyệt Thông Giác, sau trụ  trì chùa Hồng Phúc Hòe Nhai – Hà Nội.
  • [21] Nguyên văn: Tiềm long giảng thuyết ư Càn sơ. Nghĩa từ quẻ Càn, sơ Hào sơ Cửu, Tiềm long vật dụng潜龙勿用, của Kinh Dịch,
  • [22] Húc nhật: Húc nhật nghĩa là mặt trời mới ló dạng.
  • [23] Li chiếu: Tượng truyện quẻ Li có câu: 明兩作離,大人以繼明照于四方 minh lưỡng tác Li, đại nhân  dĩ kế minh chiếu vu tứ phương. Văn cảnh cho thấy chỉ Như Sơn mới xuất hiện (húc nhật) mà đã sáng thêm sáng như quẻ Li.
  • [24] Thân thời: Giờ thân, theo chia múi giờ trong ngày thì giờ Thân vào 15- 17h chiều.
  • [25] Năm Đinh Tỵ là năm 1737,  sư 57 tuổi, như vậy sư sinh năm 1681. Ở trên ghi ông sinh năm Tân Dậu, tức năm 1681.
  • [26] Xà duy: chỉ lễ hỏa thiêu, để thu xá lị.
  • [27] Nguyên văn: 峝宗第三祖萬德山廣嚴禪寺圓明塔故黎勅賜僧統凈覺和尚法諱慈山行一禪師贈封普濟化生菩薩; Phiên âm: Động tông đệ tam tổ, Vạn Đức sơn, Quảng Nghiêm thiền tự, Viên Minh tháp, cố Lê sắc tứ Tăng thống Tịnh Giác hòa thượng, pháp húy Từ Sơn Hành Nhất thiền sư, tặng phong Phổ Tế Hóa sinh Bồ tát
  • [28] Văn bia này được dựng năm Gia Long thứ 13 (1824), có thác bản kí hiệu số 334, tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Nguyên văn chữ Hán: 南無妙光塔真融和尚法諱宗演大慧祖師,南無南無圓明塔僧統凈覺大和尚法諱慈山行一大祖師, 南無靈巖塔特製本來大和尚法諱性燭道週祖師.
  • [29] Nguyên văn chữ Hán: 山南建昌真定香藝蔣有堅字如山敬寫此面.
  • [30] Nguyên văn chữ Hán: 鴻福寺沙門如山奉撰
  • [31] Nguyên văn chữ Hán: 鴻福寺沙門如山著述,門人沙彌性燭叅閱,沙彌性派,性顯叅較
  • [32] Nguyên văn chữ Hán: 第三十五祖始月通覺尊者,曹洞之南通覺始,第三十六祖洪福宗演尊者,第三十七祖洪福慈山行一尊者,第三十八祖洪福性燭本來道週尊者,第三十九祖海奠大顛密多尊者,第四十祖寬翌道原清朗尊者。。。
  • [33] Chuyết Chuyết thiền sư (1594 – 1644), người Chương Châu – Phúc Kiến (thời Minh, Trung Quốc), đến Đại Việt khoảng năm 1630, sau đấy truyền phái Lâm Tế ở miền Bắc. Chuyết Chuyết trụ trì hai chùa Phật Tích và Bút Tháp ở Bắc Ninh, cũng là hai tổ đình lớn nhất của phái Lâm Tế miền bắc. Sau khi ông mất, đệ tử truyền tông cho đến tận ngày nay.
  • [34] Bài kệ này được chép lại đầy đủ trong bản Kiến tính thành Phật của Chân Nguyên thiền sư. Vốn bài kệ này được truyền bởi Trí Bản Đột Không. Xin xem bài: Kệ phái truyền thừa Lâm Tế Đại Việt của Phạm Tuấn trên Thông báo Hán Nôm học năm 2006.
  • [35] Thiền môn tu trì kinh chú luật nghi, Phúc Điền hòa thượng soạn, bản lưu chùa Bổ Đà, phần Bản quốc chư tổ kế đăng, tờ 114a.
  • [36] Nguyên văn chữ Hán: 拙公和尚主持萬福寺為始,下二傳明良,下三傳明幻,下四傳如山.
  • [37] Nguyên văn chữ Hán重刊法界安立圖序。安子山龍洞寺竹林僧統正覺和尚字真源付囑善護念東山祥光寺沙彌僧字如山重刊. Ảnh bài tựa này chúng tôi được sư thầy Thích Đồng Dưỡng cung cấp cho, nhân đây xin cảm ơn!

Tham khảo

  1. Khảo luận về đệ Tam tổ phái Tào Động Việt Nam Như Sơn Thiền sư (1681 – 1737) | TS. Phạm Văn Tuấn
4.6/5 (9 bình chọn)

Hình ảnh

Chia sẻ
03

Nội dung chính

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *


Banner App ChỐn ThiÊng 3 (60x90)