Danh tướng Trần Khát Chân (1370 – 1399)

Danh tướng Trần Khát Chân (1370 – 1399)

Thông tin cơ bản

Thân thế

Trần Khát Chân sinh năm 1370 (Canh Tuất), ông “là người ở Hà Lãng, phủ Vĩnh Ninh, nay là xã Hà Lương, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa. Ông là người dòng dõi Trần Bình Trọng, cha là Trần Vi Nhân làm nghề thầy thuốc, mẹ là Đặng Thị Thục.”[1] Ngay từ nhỏ, ông đã là người ham học. 18 tuổi, Trần Khát Chân đã có tiếng là văn võ song toàn. Năm 1388 (năm Mậu Thìn), ông thi đỗ Thái học sinh.

Những đóng góp

Trần Khát Chân sống vào thời kỳ triều Trần bắt đầu suy yếu. Những cuộc chiến tranh liên miên, khốc liệt với các nước lân bang, đặc biệt là Chiêm Thành đã khiến cho tiềm lực quốc gia suy kiệt. Vua Chiêm Thành là Chế Bồng Nga nhiều phen đem quân ra cướp phá, tỏ vẻ coi thường vua Trần. Vào các năm 1371, 1377, 1378, Chế Bồng Nga kéo quân vào xâm chiếm và thiêu rụi cả kinh thành Thăng Long, vua tôi nhà Trần không sao chống trả lại. Quân Chiêm Thành vào kinh thành bắt đàn bà con gái, cướp vàng bạc châu báu rồi rút quân về. Thời điểm đó, hễ tướng nào của nhà Trần ra trận thì hầu như đều thất bại.

Tháng 10, năm 1389 (Kỷ Tỵ), quân Chiêm lại kéo quân sang đánh nước ta một lần nữa. Lần này, đích thân Chế Bồng Nga chỉ huy. Quân Chiêm Thành đến đánh chiếm Thanh Hóa, đánh vào hương Cổ Vô, vua Thuận Tông sai Hồ Quý Ly đem quân chống giữ. Quân Chiêm Thành đắp ngăn dòng sông ở thượng lưu. Quan quân nhà Trần đóng nhiều cọc để đối địch. Giặc cho quân và voi mai phục, giả bỏ trại mà về. Quý Ly chọn những quân tinh khỏe gọi là quân cảm tử, đuổi theo để đánh; quân thủy nhổ cọc ra đánh. Biết quân nhà Trần bị mắc mưu, lúc này giặc Chiêm bèn phá đập chắn nước rồi cho voi xông ra. Quân ta trận đó thiệt hại lớn; nhiều tướng bị giặc bắt. Khi đó Hồ Quý Ly về kinh thành xin vua cho thêm thuyền ra tiếp ứng, nhưng vua không đồng ý. Hồ Quý Ly xin từ chức không đi đánh nữa. Hai tướng Phạm Khả Vĩnh và Nguyễn Đa Phương cũng không cầm cự nổi với giặc. Quân Chiêm Thành thừa thắng tiến ra Bắc, đóng quân trên sông Hoàng Giang (nay thuộc Hà Nam). Kinh thành Thăng Long lại rơi vào thế hỗn loạn, nhiều người bỏ đi lánh nạn.

Trong tình thế nguy cấp đó, Thượng hoàng Trần Nghệ Tông bèn sai tướng Trần Khát Chân, lúc đó chỉ là một võ tướng cấp thấp chỉ huy đội quân Long Tiệp đi đánh giặc. Trần Khát Chân khẳng khái vâng mệnh vua ra trận. Thượng hoàng Trần Nghệ Tông đã khóc khi tiễn đưa tướng Trần Khát Chân. Quân ta xuất phát từ sông Hồng, đi đến Hoàng Giang thì gặp giặc. Trần Khát Chân quan sát thấy địa hình ở đó khó tổ chức đánh trả, bèn lui quân về giữ Hải Triều (thuộc sông Luộc chảy qua Phù Cừ, Hưng Yên và Hưng Hà, Thái Bình). Lúc đó, Trần Nguyên Diệu, em của Phế đế Trần Hiện đem bè lũ đầu đảng chạy theo quân Chiêm với ý định báo thù Nghệ Tông và Hồ Quý Ly đã giết chết anh trai. Tháng giêng năm Canh Ngọ (1390), Chế Bồng Nga cùng với Nguyên Diệu đem hơn 100 chiến thuyền tiến vào Hải Triều dò xét tình hình quân ta định đánh lớn.

Do được quân hàng của Chiêm Thành chỉ điểm thuyền của vua Chế Bồng Nga, Trần Khát Chân cho quân tập trung hỏa pháo nhằm bắn vào thuyền. Thuyền vua Chiêm trúng đạn, Chế Bồng Nga chết tại trận, quân Chiêm tan vỡ.

Đại Việt sử ký toàn thư chép rất chi tiết về trận chiến này: “Canh Ngọ, [Quang Thái] năm thứ 3 [1390], (Minh Hồng Vũ năm thứ 23). Mùa xuân, tháng giêng, ngày 23, đô tướng Trần Khát Chân đại thắng quân Chiêm Thành ở Hải Triều, giết được chúa nó là Chế Bồng Nga. Khi ấy, Bồng Nga cùng với [17b] Nguyên Diệu dẫn hơn một trăm thuyền chiến đến quan sát tình thế của quan quân. Các thuyền giặc chưa tập họp lại, thì có tên tiểu thần của Bồng Nga là Ba Lậu Kê nhân bị Bồng Nga trách phạt, sợ bị giết, chạy sang doanh trại quân ta, trỏ vào chiến thuyền sơn xanh bảo rằng đó là thuyền của quốc vương hắn. Khát Chân liền ra lệnh các cây súng nhất tề nhả đạn, bắn trúng thuyền Bồng Nga, xuyên suốt ván thuyền, Bồng Nga chết, người trong thuyền ồn ào kêu khóc. Nguyên Diệu cắt lấy đầu Bồng Nga chạy về với quan quân. Đại đội phó Thượng đô quân Long Tiệp là Phạm Nhũ Lặc và đầu ngũ là Dương Ngang liền giết luôn Nguyên Diệu, lấy cả đầu Bồng Nga. Quân giặc tan vỡ”[2]. Trần Khát Chân cho cắt đầu Chế Bồng Nga đem về báo tin thắng trận. Sau chiến công này, ông được phong làm Long Tiệp bổng thần Nội vệ Thượng tướng, tước Vũ tiết quan nội hầu.

Năm 1398, Hồ Quý Ly bắt vua Thuận Tông nhường ngôi cho thái tử mới 3 tuổi và có âm mưu thoán đoạt ngôi nhà Trần. Trước đó, từ năm 1397, Hồ Quý Ly bắt đầu cho xây dựng kinh đô mới ở Thanh Hóa. Thành có 4 cửa mở ra bốn hướng và cửa Nam là chính môn. Cửa này có con đường lát đá dẫn thẳng tới ngọn núi Đốn Sơn (tức núi Đún, xã Cao Mật, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa). “Con đường này dài tới ba nghìn thước và theo như nhân dân địa phương kể thì do Trần Khát Chân đắp nên. Chuyện kể rằng: “Hồ Quý Ly bắt Khát Chân chỉ huy việc làm con đường này. Vật liệu đất đá phải đi lấy ở rất xa trong núi. Thời hạn hoàn thành trong mười lăm ngày. Dụng ý của Quý Ly là định hại Khát Chân nên mới quy định như vậy. Khát Chân tuy không phục Quý Ly, nhưng xây dựng đô thành lại là mệnh lệnh vua ban, ông đành phải thực hiện. Quý Ly chắc mẩm sẽ hại được ông, nhưng không ngờ ông lại có pháp thuật, chỉ trong một ngày ông đã hoàn thành con đường, không phải phiền tới dân…””[3]

Qua đời

Những việc làm độc ác của Hồ Quý Ly đã làm cho một số quan lại ôm ấp tư tưởng trung thành với họ Trần càng thêm bất mãn. Tướng Trần Khát Chân cùng Thái bảo Trần Nguyên Hàng và một số vương hầu nhà Trần mưu sát Hồ Quý Ly. Mùa hạ năm 1399, Hồ Quý Ly tổ chức hội thề trên đỉnh núi Đốn Sơn. Quý Ly ngồi trên lầu nhà Khát Chân để xem. Phạm Thu Tổ và thích khách Phạm Ngưu Tất cầm gươm định tiến lên lầu, nhưng không rõ thế nào mà Khát Chân lại trừng mắt ra hiệu ngăn lại, rồi thôi. Quý Ly chột dạ đứng dậy đi xuống lầu có vệ sĩ hộ vệ. Ngưu Tất liền vứt gươm xuống đất nói: “Cả lũ chết thôi”. Sự việc bị bại lộ, Trần Khát Chân cùng hơn 370 người liên quan bị giết và tịch thu gia sản. “Người đời truyền Khát Chân khi sắp bị hành hình, lên núi Đốn Sơn gào thét 3 tiếng, chết qua 3 ngày sắc mặt vẫn như khi sống, ruồi nhặng không dám bâu. Sau có hạn hán, cầu mưa thì ứng nghiệm ngay.”[4] Do ông là vị thượng tướng có công đánh giặc ngoại xâm, hết lòng trung thành với nhà Trần, nên được sử sách cùng nhân dân trân trọng và ca tụng. Tên ông được đặt cho một phố tại Hà Nội và cho một trường trung học phổ thông tại huyện Vĩnh Lộc quê hương ông. Việc Trần Khát Chân được thờ tại đình Khuyến Lương cũng là biểu hiện lòng yêu mến và trân trọng của nhân dân đối với nhân vật lịch sử này.

Chú thích

[1] GS Vũ Khiêu (Chủ biên), Danh nhân Hà Nội, Nxb Hà Nội, 2004, tr. 248.

[2] Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên, Phan Sĩ Liên,… Đại Việt Sử ký toàn thư, Bản Kỷ, quyển VIII, mộc bản khắc năm Chính Hòa thứ 18 (1697), Nxb Khoa học Xã hội, 1993, tr. 282.

[3] GS Vũ Khiêu (Chủ biên), Danh nhân Hà Nội, Sđd, tr. 249 – 250.

[4] Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên, Phan Sĩ Liên,… Đại Việt Sử ký toàn thư, Bản Kỷ, quyển VIII, Sđd, tr. 294.

Tài liệu tham khảo

  1. Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên, Phan Sĩ Liên,… (1993) Đại Việt Sử ký toàn thư, Bản Kỷ, quyển VIII, mộc bản khắc năm Chính Hòa thứ 18 (1697), Nxb Khoa học Xã hội.
  2. GS Vũ Khiêu (Chủ biên), 2004, Danh nhân Hà Nội, Nxb Hà Nội.
5/5 (1 bình chọn)
Chia sẻ
Tuong Tran Khat Chan

Nội dung chính

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *


Banner App ChỐn ThiÊng 3 (60x90)