Thân thế
Hòa thượng Thích Huệ Chiếu của dòng họ Nguyễn, được biết đến với pháp hiệu Huệ Chiếu, chào đời vào Rằm tháng ba năm Ất Mùi (1895) tại ấp Vĩnh Lộc, xã Bình Hòa, quận Bình Khê, nay là huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định. Thân phụ của Ngài là ông Nguyễn Chơn Phước, và thân mẫu là bà Đặng Thị Nhu.
Ngài có một xuất thân từ gia đình kính trọng Tam Bảo, vì vậy từ nhỏ, Ngài thường xuyên đến chùa để học và nghe giảng pháp. Hòa thượng Trừng Tâm, người trụ trì chùa Vĩnh Lộc (gần nhà của Ngài), đã truyền dạy cho Ngài về những phẩm hạnh cơ bản của người xuất gia.
Cơ duyên tu hành
Đến khi Ngài 25 tuổi (Kỷ Mùi – 1919), Ngài chính thức cầu pháp với Hòa thượng Chánh Nhơn tại chùa Long Khánh – Qui Nhơn và nhận pháp danh là Tâm Tịnh, tự là Giải Thoát, hiệu là Huệ Chiếu. Trong năm đó, Ngài cũng thọ Tỳ Kheo Bồ Tát giới với Hòa thượng Chí Hưng chùa Khánh Lâm, tỉnh Bình Định. Ngay sau khi đắc giới, Ngài học luật dưới sự hướng dẫn của Phổ Huệ Pháp sư.
Năm Nhâm Tuất (1922), khi chùa Hưng Long, Bình Định cần một trụ trì mới, Hòa thượng Bổn sư đã mời Ngài đến làm trụ trì. Mặc dù tình hình kinh tế của chùa rất eo hẹp, nhưng Ngài vẫn gánh trách nhiệm tiếp đón Tăng độ và chúng tu trong thời gian Ngài trụ trì.
Năm Ất Sửu (1925), Ngài đảm nhận vai trò thư ký tại trường Hương chùa Phước Quang tỉnh Quảng Ngãi và được Tăng chúng thỉnh làm Giáo thọ.
Sau đó, Ngài di chuyển về Nam hóa độ, thiện nam tín nữ qui ngưỡng rất đông, vào năm Đinh Mão (1927), Hòa thượng Bổn sư kêu gọi Ngài về làm Hóa chủ tổ chức trường Hương (với hơn tám chục Tăng) tại chùa Long Khánh, Qui Nhơn.
Năm Kỷ Tỵ (1929), Hòa thượng Chơn Niệm chùa Trùng Khánh tỉnh Ninh Thuận mời Ngài làm Thiền chủ cho trường Hương để hướng dẫn chúng tu học trong ba tháng. Khi kết thúc khóa tu, trường Hương mở giới đàn và thỉnh Ngài làm Yết ma A Xà Lê.
Năm tiếp theo, 1930, Ngài và Hòa thượng Trùng Khánh đến chùa Hiển Long, tỉnh Vĩnh Long (Nam phần) để mở lớp gia giáo, với Ngài làm chủ giảng, có hơn bốn mươi Tăng học tập. Sau đó, Ngài trở lại Bình Định.
Những đóng góp cho Phật giáo
Năm Tân Mùi (1931), Ngài chịu trách nhiệm đại trùng tu chùa Hưng Long, Bình Định. Năm Nhâm Thân (1932), Ngài tổ chức Hội An Nam Phật Học và cổ động xây dựng ngôi tiền đường tại chùa Long Khánh để làm trụ sở của hội, vì lúc đó chưa có Hội quán.
Năm 1934, trong năm Giáp Tuất, Ngài cùng Bổn sư đã khởi xướng một chiến dịch truyền bá Phật pháp bằng cách mở Phật học đường tại chùa Long Khánh, Qui Nhơn. Để làm sáng tỏ hơn cho học trò, chư Tăng Trung Nam đã thỉnh Quốc sư Phước Huệ làm chủ giảng, và hơn năm mươi vị đệ tử đã chấp tay tham gia học tập.
Năm 1937, vào năm Đinh Sửu, chùa Thiên Đức ở Bình Định gặp khó khăn khi trụ trì không còn, chư sơn đã cung thỉnh Ngài về trụ trì. Tình trạng tàn tật của ngôi chùa đã đặt ra yêu cầu lớn về sự trùng tu, và vào năm Mậu Dần (1938), Hòa thượng đã tổ chức một cuộc lạc quyên đại để tái tạo ngôi Tổ đình Thiên Đức. Ngay sau đó, Ngài chuyển hướng trùng tu chùa Vĩnh Lộc, nơi Ngài sinh trưởng và có đóng góp quan trọng cho sự phát triển của Phật pháp.
Năm 1939, năm Kỷ Mão, Ngài nhận lệnh từ Hòa thượng Bổn sư để kiến tạo lại chùa Long Quang thuộc thôn Phú Ốc, tỉnh Thừa Thiên, chính Bổn sư Ngài là Hòa thượng Chánh Nhơn khai sơn.
Năm 1942, Năm Nhâm Ngọ, Ngài tổ chức Đại giới đàn tại chùa Thiên Đức, và chư Tăng đã cung thỉnh Ngài làm Đàn đầu thí giới. Cuộc hội nghị này thu hút đến trên một trăm vị Tăng, làm cho không khí tràn ngập lòng tin và sự hiệp nhất trong cộng đồng Phật tử.
Năm 1943, vào năm Quí Mùi, Thượng tọa Giác Tánh mở lớp gia giáo tại chùa Hưng Long và cung thỉnh Ngài làm Chứng minh Đạo sư.
Năm 1945, trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp, Ngài được chọn làm Chủ tịch đoàn Phật giáo Cứu quốc, do thanh niên Tăng Bình Định tổ chức.
Dù đối mặt với tình thế an hay nguy, Hòa thượng Huệ Chiếu không bao giờ quên trách nhiệm đào tạo Tăng tài cho tương lai Phật pháp. Trong năm 1945, Ngài triệu tập thanh niên Tăng để mở Phật Học Đường tại chùa Thiên Đức, và đã mời các Thượng Tọa Huệ Phước, Giác Tánh, Tâm Hoàn, Huyền Quang và nhiều vị khác giảng dạy. Do duyên khác nhau, Phật Học Đường này sau đó đã được dời về chùa Thập Tháp.
Năm 1947, vào năm Đinh Hợi, Hòa thượng Huệ Chiếu đại diện cho Hội Phật Giáo Việt Nam tại liên khu 5, làm Phó chủ tịch Mặt trận Liên Việt tại liên khu 5. Trong năm đó, Ngài đã đứng ra triệu tập chư Tăng từ bốn tỉnh Nam, Ngãi, Bình, Phú, để tổ chức Hội Phật Giáo Việt Nam liên khu 5, và Ngài được cử làm Chánh Hội trưởng.
Năm 1951, trong năm Tân Mão, Hòa thượng Huệ Chiếu đã khai sơn chùa Thiên Chơn tại ấp Kiên Mỹ, quận Bình Khê, tỉnh Bình Định. Tuy nhiên, địa phương này đã chịu nhiều tác động của chiến tranh, dẫn đến hủy hoại toàn bộ ngôi chùa. Không chấp nhận thất bại, vào năm 1952, năm Nhâm Thìn, Hòa thượng vẫn kiên trì khai sơn chùa Thiên Phước thuộc ấp Kiên Mỹ để nối lại công đức và tâm linh của chùa Thiên Chơn.
Năm 1955, năm Ất Mùi, Hòa thượng chuyển đến Kontum để khai sơn chùa Trung Khánh thuộc ấp Trung Lương. Trong năm đó, Hội Phật Học Việt Nam tái lập và thỉnh Ngài làm chứng minh đạo hạnh, đồng thời, Giáo Hội Tăng Già ra đời, thỉnh Ngài vào hàng Trưởng lão cố vấn cho Giáo Hội Tăng Già.
Năm 1958, năm Mậu Tuất, Hòa thượng họp môn phái để cải tạo Tổ đình Long Khánh. Trong năm sau, Kỷ Hợi (1959), Hòa thượng chứng minh cho cuộc đúc kim thân Phật Tổ bằng đồng cao 2 thước để thờ tại Bửu điện chùa Long Khánh – Qui Nhơn.
Năm 1963, năm Quí Mão, Hòa thượng tham gia vào phong trào phản đối chế độ độc tài của Ngô Đình Diệm. Sau sự sụp đổ của chế độ này, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất được thành lập, và Ngài được thỉnh vào hàng Trưởng lão cố vấn của Giáo Hội Trung Ương.
Cuối năm Giáp Thìn 1964, Hòa thượng tiếp tục công việc trùng tu chùa Thiên Đức. Trong bối cảnh chiến tranh lan rộng, đến năm Đinh Mùi (1967), Ngài buộc phải di trú về chùa Long Khánh để bảo đảm an ninh.
Năm 1968, năm Mậu Thân, Ngài làm Hóa chủ cho Đại giới đàn chùa Long Khánh, và Hòa thượng Phúc Hộ được thỉnh làm Đàn đầu thí giới.
Thời kỳ viên tịch
Năm 1969, năm Kỷ Dậu, mặc dù tuổi đã cao, nhưng vì sự cầu nguyện và cung thỉnh của chư Tăng, Hòa thượng Huệ Chiếu đã nhận làm Thiền chủ lớp an cư kiết hạ tại Tổ đình Long Khánh – Qui Nhơn.
Hòa thượng thị tịch vào lúc 18 giờ ngày 10 tháng 02 năm Canh Tuất, tức là ngày 17-3-1970. Ngài vĩnh viễn yên nghỉ, hạ lạp 50 năm và thọ thế 75 tuổi. Tâm hồn và công đức của Ngài vẫn tiếp tục sống mãi trong lòng đệ tử và những người tìm đến đạo pháp.
Tham khảo
- Tiểu sử danh tăng Việt Nam thế kỷ XX, tập 1, TT. Thích Đồng Bổn, thành hội Phật giáo TP. HCM. 1995