Quốc Sư Thích Phước Huệ (1869-1945)

Quốc Sư Thích Phước Huệ (1869-1945)

Thông tin cơ bản

Thân thế

Quốc sư, tên thật là Nguyễn Tấn Giao, sinh năm Kỷ Tỵ (1869) tại làng Phú Thành, phủ An Nhơn, ngày nay là ấp Phú Thành, xã Nhơn Thành, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Gia đình Ngài gồm thân phụ là cụ Nguyễn Chánh Niệm, tự Hòa Bình, và thân mẫu là cụ Nguyễn Thị Lãnh, đều là những Phật tử chân thành.

Cơ duyên tu hành

Ngài bắt đầu hành trình xuất gia từ 12 tuổi (1881) và thọ giới tại chùa Thập Tháp, được Hòa thượng Chí Tịnh (Minh Lý) ban pháp hiệu là Phước Huệ. Sau đó, Ngài học tại chùa Tịnh Lâm ở huyện Phù Cát, Bình Định, theo học với Hòa thượng chùa Châu Long, tức Ngài Từ Mẫn.

Năm 19 tuổi, Ngài trở về giữ chức Thủ khố của Tổ đình Thập Tháp. Năm 20 tuổi, Ngài tiếp tục học tập tại chùa Từ Quang ở Đá Trắng, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên, với Hòa thượng Luật Truyền (Pháp Chuyên). Ngài thọ đại giới vào năm 1889 và đắc pháp năm 1892 với Hòa thượng Luật Truyền.

Sau khi Bổn sư viên tịch, Ngài quay về Tổ đình Thập Tháp, thực hiện thọ tang, và ở lại tham học cùng sư huynh Tăng Cang Vạn Thành, người vừa mới được suy cử làm trụ trì Tổ đình này. Đồng lòng tu tâm suốt mười năm, sử dụng đạo tâm và trí tuệ sáng tạo, Ngài đã hiểu sâu kinh luận Tam Tạng giáo điển và thâm học Bách Gia Chư Tử. Với khả năng giáo hóa linh hoạt, Ngài đạt được đạo vị cao, được đời người tặng danh hiệu “Phật pháp thiên lý câu” (Con ngựa tinh thông Phật pháp chạy được ngàn dặm).

Những đóng góp cho Phật giáo

Năm 1894, Ngài được bổ nhiệm làm trụ trì chùa Phổ Quang ở huyện Tuy Phước, nay thuộc xã Phướng Thuận. Chùa này là ngôi cổ tự do Thiền sư Minh Giác – Kỳ Phương (đệ tử Tổ Nguyên Thiều) khai sơn từ thời chúa Võ Vương Nguyễn Phúc Trăn (1687 – 1691).

Năm 1901 (Tân Sửu), triều đình ban cho Ngài giới đao độ điệp làm Tăng Cang cho chùa Thập Tháp. Năm 1908, Ngài được mời vào Hoàng cung thuyết Pháp và đồng thời mở khóa giảng kinh tại chùa Trúc Lâm. Các vị vua Thành Thái, Duy Tân và Khải Định đều mời Ngài vào cung để giảng pháp. Vì những đóng góp xuất sắc này, Ngài được triều đình, sư môn và đồ chúng tôn kính gọi là Quốc sư.

Năm 1920, Quốc sư Phước Huệ mở các lớp nội điển tại chùa Thập Tháp và Long Khánh. Đến năm 1929, Hòa thượng Giác Tiên mở Phật học đường tại chùa Trúc Lâm ở Huế và đặc biệt mời Quốc sư ra làm chủ giảng. Từ đó, mỗi năm, Quốc sư đều được thỉnh về chùa Trúc Lâm để giảng dạy cho Tăng sinh. Các đệ tử của Hòa thượng Giác Tiên, gồm các Sư Mật Khế, Mật Nguyện, Mật HiểnMật Thể, đều học tập với Quốc sư và sau này trở thành những sứ giả Như Lai, trụ cột cho phong trào chấn hưng Phật giáo. Trong số các cư sĩ nổi bật, có Bác sĩ Tâm Minh – Lê Đình Thám.

Nhờ vào cơ sở hoằng pháp này, năm 1932, Quốc sư cùng các tôn túc ở đất Thần kinh thành lập Hội An Nam Phật Học và xuất bản tờ báo Viên Âm, hỗ trợ phong trào chấn hưng Phật giáo. Nhiều trường Phật học từ Tiểu học đến Đại học được mở tại các chùa Trúc Lâm, Tây Thiên, Kim Sơn, Báo Quốc, Diệu Đức và nhiều nơi khác.

Cuối năm 1934, một lớp Đại học và một lớp Trung học được mở tại chùa Trúc Lâm và Tường Vân, với sự hướng dẫn của Thiền sư Giác Tiên và Hòa thượng Thích Tịnh Khiết. Quốc sư được cử làm Đốc giáo giảng dạy cho cả hai lớp này, trong đó lớp Trung học nhận học Tăng từ Nam do hội Lưỡng Xuyên Phật Học gửi ra như các vị Thiện Hòa, Thiện Hoa, Hiển Thụy, Hiển Không, Chí Thiện v.v.

Năm 1937, sau khi Tăng Cang Vạn Thành liễu đạo, sơn môn cùng nhau cung thỉnh Quốc sư về Tổ đình Thập Tháp để kế vị. Từ đó, Quốc sư ở hẳn tại Bình Định và không ra Huế giảng dạy nữa, chủ yếu vì tuổi cao và sức yếu. Đồng thời, Ngài phải đảm nhận vai trò Đốc giáo cho Phật học đường cấp Trung đẳng mở tại chùa Long Khánh, do Hội Phật Học Bình Định thiết lập. Điều này dẫn đến việc nhiều học Tăng lớp Đại học ở Huế, bao gồm các vị Thiện Hòa, Thiện Hoa, Hiển Thụy, Hiển Không, Chí Thiện, đều theo học tại Phật Học Đường Long Khánh, Bình Định.

Ngoài ra, Quốc sư còn trùng tu lại Tổ đình Thập Tháp, tạo nên một trung tâm Phật giáo uy tín tại tỉnh Bình Định. Ngài cũng khai sơn chùa Phước Long tại thị trấn Phú Phong, thuộc xã Bình Phú, huyện Bình Khê, ngày nay là huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định. Quốc sư Phước Huệ, cây đại thụ của nền Phật giáo miền Trung, đã lan tỏa tầm vóc không chỉ ở Trung kỳ mà còn đến Nam kỳ. Ngài là nguồn cảm hứng cho các trường Đại học Phật giáo ở Huế và Bình Định, đặc biệt sau thời điểm bắt đầu phong trào chấn hưng Phật giáo ở miền Trung.

Thời kỳ viên tịch

Sau bao năm cống hiến tài năng, sức lực, và tâm huyết cho công cuộc xây dựng tòa lâu đài Phật giáo, tháng giêng năm Ất Dậu (1945) Quốc sư Phước Huệ viên tịch tại Tổ đình Thập Tháp, thọ 76 tuổi đời, được 64 giới lạp. Đồ chúng và thiện tín xây tháp trong vườn chùa để tôn thờ Ngài. Bấy giờ Hòa thượng Trí Hải trụ trì chùa Bích Liên Bình Định đề 4 câu thơ tại tháp như sau:

Nguy nhiên nhất cao tháp
Độc tọa Đồ Bàn đông
Ngoại thị hữu vi tướng
Trung tàng vô tướng Ông.

Tạm dịch :

Cao thay một ngọn tháp.
Độc chiếm đông Đồ Bàn.
Ngoài bày hữu vi tướng.
Trong ẩn vô tướng Ông.

Năm 1970, nhằm tưởng niệm và tôn vinh công đức của Quốc sư Phước Huệ, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tỉnh Bình Định đã quyết định đặt tên pháp hiệu của Ngài cho một Phật học viện mới được thành lập tại Tổ đình Thập Tháp: Phật học viện Phước Huệ.

Tinh thần triết học của Quốc sư, trong đó cái tướng Hữu, Vô trong tâm pháp đã được thống nhất, đã trở thành nguồn động viên cho những khát vọng tự do, giác ngộ và tự giác dân tộc qua các hình tượng như Duy Tân (vua), Tâm Minh (cư sĩ), Mật Thể, Thiện Hoa (tu sĩ), và nhiều nhân vật khác. Những hạnh nguyện này không chỉ trở thành nguồn cảm hứng bất tận mà còn là ngọn đèn sáng hướng dẫn cho muôn đời sau của Phật giáo Việt Nam.

Tham khảo

  • Tiểu sử danh tăng Việt Nam thế kỷ XX, tập 1, TT. Thích Đồng Bổn, thành hội Phật giáo TP. HCM. 1995
5/5 (1 bình chọn)
Chia sẻ
Quốc Sư Thích Phước Huệ

Nội dung chính

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *


Banner App ChỐn ThiÊng 3 (60x90)