Quan Lớn Đệ Ngũ Tuần Tranh

Quan Lớn Đệ Ngũ Tuần Tranh

Thông tin cơ bản

Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh là ai?

Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh gọi nôm là Ông Lớn Tuần Tranh là vị tôn quan thứ năm trong Ngũ vị Tôn quan (Ngũ vị vương quan, ngũ vị tôn ông) trong Đạo mẫu, Tam phủ, Tứ phủ, sau hàng Tam vị Thánh mẫu.

Vai trò Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh là Thanh tra, giám sát nhân gian. Ngọc Hoàng ban cho Ngài thống lĩnh thiên địa binh, thay quyền tam tứ phủ đại diện cho con người (nhân vi chúa tể), thu chấp kim ngân tài mã, giải oan nghiệp sớ cho trần gian. Họ tên của Vị thánh này dần được sáng tỏ nhiều năm qua một số giá hầu đồng riêng biệt, khác nhau cả về địa điểm cũng như địa phương. 

Sử tích Cao Lỗ – Vương Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh

Đây là một nhân vật lịch sử đã được ghi trong Đại Việt Sử ký toàn thư. Cao Lỗ (chưa rõ họ và năm sinh – mất 179 trước Công nguyên, có một số thư tịch cổ lại ghi tên ông là Cao Nỗ, Cao Thông, Đô Lỗ, Thạch Thần, hay Đại Thần Đô Lỗ Thạch Thần) là một Đại thần – Danh Tướng của Thục Phán An Dương Vương.

Ông sinh ra tại xã Cao Đức, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh ngày nay (thời Hùng Vương là bộ Vũ Ninh, đời Tần thuộc Tượng quận, đời Hán thuộc quận Giao Chỉ là đất của hai huyện Long Biên và Luy Lâu). Sách cũng ghi rõ như sau “Vua sai bề tôi là Cao Lỗ (có sách chép là Cao Thông) làm nỏ thần, lấy móng rùa làm lẫy, đặt tên là Linh Quang Kim Trảo Thần Nỏ.” là một Đại thần – Danh Tướng của Thục Phán An Dương Vương. 

Ông là người chế ra nỏ liên châu (bắn được nhiều mũi tên một phát) hay còn được gọi là nỏ thần. Cũng chính ông là người khuyên Thục An Dương Vương dời đô xuống đồng bằng, tìm đất đóng đô và là người được An Dương Vương giao nhiệm vụ thiết kế, chỉ huy công trình xây thành Cổ Loa. Ông đã thống lĩnh quân đội Âu Lạc nhiều lần đánh thắng quân xâm lược của Triệu Đà lúc đó là Nam Việt Vương từ vùng Lưỡng Quảng tấn công xâm lược lãnh thổ Lạc Việt. Quân Việt Âu Lạc được ông rèn luyện, có vũ khí đánh xa là hàng nghìn nỏ liên châu có thể bắn ra cùng lúc hàng vạn mũi tên đồng đã đánh bại quân Triệu Đà. 

Vì có công lớn nên ông được giao chức vụ đứng đầu trong Triều đình. Ông đem lòng yêu công chúa Mị Châu – con gái An Dương Vương Thục Phán, nhưng Mị Châu lại phải lòng Trọng Thủy là con Triệu Đà được nhiều lần đi sứ cầu hòa đến An Dương Vương. Thấy quân lực Âu Lạc hùng mạnh, biết không thể đánh bại bằng quân sự, Triệu Đà dùng mưu đưa con Trọng Thủy lấy công chúa Mị Châu để tìm bí mật về tổ chức quân sự và quy cách vũ khí nỏ liên châu. Đoán được âm mưu ấy, Cao Lỗ can ngăn An Dương Vương không cho Mị Châu lấy Trọng Thủy song, An Dương Vương không tin Cao Lỗ mà tin rằng sự hòa hiếu để tránh được chiến tranh xâm lược của Nam Việt, đồng ý kết thông gia với Triệu Đà.

Sau đó Trọng Thủy trở về Nam Việt trình lên vua Nam Việt Vương Triệu Đà tất cả bí mật về quốc phòng của Âu Lạc. Quân Triệu Đà tấn công, nhưng không giành ngay được thắng lợi tuyệt đối. Nỏ liên châu cũng không còn phát huy tác dụng như trước vì quân Triệu Đà đã có cách chống lại. An Dương Vương cho rằng Cao Lỗ đã để lộ bí mật quân sự, lại thêm một số quyền thần vốn ghen ghét tấu thêm khép ông vào tội chém. Nhưng vì ông có công lớn, trong án có những sự không sáng tỏ bởi vậy nên Triều đình chỉ bãi hết chức đầy Cao Lỗ lên vùng biên ải (nay là tỉnh Lạng Sơn).

Do bị oan ức không thể giãi bày được, lại thêm tính cương trực, không chịu khuất, khi đến nơi đi đầy, quân áp giải vừa mở gông cùm, Cao Lỗ đã thề lấy cái chết để rõ mình vô tội và nhảy xuống sông Kỳ Cùng tự vẫn.

Sau khi ông chết ngày 25/5 năm Nhâm Thân (năm 179 TCN), triều đình chia rẽ, quân đội Âu Lạc không có Cao Lỗ thống lĩnh đã thất bại hoàn toàn trước sức tấn công của quân Nam Việt của Triệu Đà vào năm Giáp Tý (năm 177 TCN). An Dương Vương thua chạy đem theo con gái Mị Châu. Trên đường trốn chạy, theo ước hẹn, Mị Châu đã rải lông ngỗng để báo cho Trọng Thủy tìm theo, vì vậy An Dương Vương không thể thoát; trước khi chết, An Dương Vương đã chém Mị Châu. Đây chính là truyền thuyết Mị Châu – Trọng Thủy nổi tiếng trong văn học dân gian Việt Nam còn lưu truyền đến ngày nay. Nước Âu Lạc bị diệt, rồi bị chiếm nhập vào Nam Việt của Triệu Đà mở đầu cho thời kỳ Bắc thuộc lần thứ nhất trong lịch sử Việt Nam.

Sau khi Cao Lỗ chết, dân Việt nhớ ghi công đức lập đền thờ ông tại nơi ông tuẫn tiết ở bên sông Kỳ Cùng và tại nơi ông hiển linh là bến Tranh xã Ninh Giang, huyện Vĩnh Lại (nay là Ninh Giang, tỉnh Hải Dương bây giờ).

Sự tích Quan đệ ngũ Tuần Tranh

Có một số truyền thuyết về gốc tích của ông nhất là qua Ngọc phả Thần tích các đền phủ của Đạo mẫu, đền thờ Ông cũng như qua các bài Văn chầu.

Một truyền thuyết tương đối phổ biến và qua Ngọc phả Thần tích đền Đồng Bằng thờ Vua cha Bát Hải động đình gốc tích của ông như sau: Ông là con trai thứ năm của trong một gia đình lái đò trên dòng sông Vĩnh, phủ Ninh Giang (nay thuộc Hải Dương) thời Hùng Triều Thập Bát (Hùng Duệ vương). Tuổi tác đã cao mà vợ chồng ông lái đò mà chưa có người nối dõi. Một lần ông bà bắt được bào thiêng trong có một ổ trứng trắng liền mang về nhà. Trải 9 mùa trăng đi qua, vào một ngày trời đầy mưa giông, sấm giật, 9 quả trứng nứt vỏ, 9 con rắn ra đời, ngày tháng thoi đưa, lũ rắn cũng lớn dần lên. 

Năm ấy, đất nước có giặc, vua Hùng phải lập đàn khấn cầu các Thần linh giúp sức, lại sai sứ giả đi chiêu tập hiền tài huấn luyện binh nhung. Nghe tiếng loa truyền, 9 rắn hóa thành 9 chàng trai, cùng vào yết kiến nhà vua xin tham gia tiễu trừ quân giặc. 9 anh em nhất hô, bách ứng kéo theo cả thuồng luồng, thuỷ quái ra trận. Chỉ một ngày giặc tan, đất nước trở lại thanh bình. Vua Hùng truyền lệnh phong cho 9 chàng trai là 9 ông Hoàng. Ngày 22 tháng 8 năm Bính Dần, bỗng một vầng hào quang chói lòa, 9 chàng trai lại trở thành 9 con rắn trở về với dòng sông Tam Kỳ. Từ đó dân làng truy ơn lập 9 ngôi đền thờ các dũng tướng đã giúp vua trừ giặc ở dọc hai bờ sông, từ bến đò Tranh đến tận cửa biển Diêm Điền và đền Đồng Bằng là nơi thờ người cha chèo đò trên bến sông thuở ấy, với duệ hiệu Trấn Tam Kỳ giang linh ứng, Vĩnh Công đại vương, Bát Hải động đình gọi nôm là vua cha Bát Hải.

Sự tích Quan Lớn Tuần Tranh vào thời Hùng Vương

Sự tích cho rằng Quan Lớn Đệ Ngũ Tuần Tranh là con trai thứ năm của Vua Bát Hải Động Đình. Ngài giáng dưới thời vua Hùng Định Vương trong Hùng Triều Thập Bát, là vị tướng quân tài ba kiêm lĩnh thuỷ bộ, được giao quyền trấn giữ miền duyên hải sông Tranh. Tại nơi đây ngài đã lập được nhiều công lao to lớn nên được sắc phong Công hầu. Tại quê nhà, ông có cảm tình với một người thiếu nữ xinh đẹp và cũng được nàng đáp lại tình cảm. Nhưng ông không hề biết người thiếu nữ ấy vốn là vợ lẽ của viên quan ở đó, nhưng cuộc sống không hạnh phúc với cảnh “chồng chung”, không nói cho Ông sự thật. Vậy nên ông vẫn đinh ninh đó là một tình cảm đẹp, hẹn ngày đưa nàng về làm vợ. Đến khi viên quan kia biết chuyện, vu oan cho ông đã quyến rũ vợ mình, khiến Quan Tuần Tranh mắc hàm oan, bị đem đày lên chốn Kì Cùng, Lạng Sơn.

Trong bản văn chầu có câu ca sau:

“…Ngày hai nhăm tháng năm bắt đày chốn sơn cùng thủy kiệt,

Oan vì tuyết nguyệt bởi lòng ái ân…” 

Tại đây, ông đã trầm mình xuống dòng sông Kỳ Cùng mong rửa oan, chứng tỏ mình vô tội. Hồn Ông trở lại quê nhà, hiện thành đôi bạch xà. Và được một vợ chồng ông bà lão nông bắt được đem về nhà nuôi nấng, thậm chí tậu gà để nuôi như thể con mình. Sau, quan phủ biết chuyện liền bắt ông bà phải lên cửa công chịu tội và buộc giết chết đôi bạch xà kia đi. Hai ông bà thương xót, xin thả rắn xuống dòng sông Tranh, nhưng lạ thay ngay chỗ thả đó tạo thành dòng xoáy dữ dội.

Đến thời Thục Phán An Dương Vương, vua tập hợp thuyền bè để chống Triệu Đà ở ngay bến sông Tranh, nhưng tại chỗ dòng xoáy đó,  có cơn giông tố nổi lên giữa dòng, thuyền bè không tài nào qua được. Thấy vậy, Vua bèn mời các vị lão làng đến lập đàn cầu đảo thì lập tức sóng yên bể lặng, thuyền bè đi lại thuận lợi, hơn nữa, quân sĩ ra trận cũng được thắng to. Ghi nhớ công đức, vua Thục giải oan cho ông và phong là Giảo Long Hầu. Từ đó, ông còn nhiều lần hiển thánh linh ứng, có phép nhà trời, cai quản âm binh, ra oai bảo vệ dân, giúp dân dẹp hết những kẻ hại nước hại dân.

Khánh tiệc Quan Lớn Tuần Tranh vào 25/5 âm lịch hàng năm tại đền Tranh (nay thuộc thị trấn Ninh Giang).

Tài liệu tham khảo

Đại Việt Sử ký toàn thư, Ngoại kỷ quyển I (1993), NXB Khoa học Hà Nội

2/5 (1 bình chọn)
Chia sẻ
Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh

Nội dung chính

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *


Banner App ChỐn ThiÊng 3 (60x90)