Thân thế
Thiền sư Tịnh Giác Thiện Trì, húy Tánh Ban, hiệu là Mộc Y Sơn. Ông thường được gọi là Ông Núi hay Ông Núi mặc áo vỏ cây, tên là Lê Ban, người Trung Hoa, không rõ năm sinh năm mất.
Hành trạng
Năm Nhâm Ngọ (1702), thời chúa Nguyễn Phước Chu, Ông Núi đến núi Linh Phong ở vùng miền biển Phương Phi, Phương Thái, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định, lập am tranh tu hành, đặt tên chùa là Dũng Tuyền.
Tương truyền, hằng ngày ông vào núi hái củi, bó thành bó to, đội củi xuống núi đặt bên vệ đường, người dân địa phương đem gạo, rau đổi lấy. Núi này nhiều cọp beo và thú dữ, nhưng với đức hạnh cao phong của Ông Núi, thú dữ trở nên hiền lành, gần gũi nhau thân thiện, không còn cách biệt giữa người và vật.
Năm Quý Sửu (1733), chúa Nguyễn Phước Trú (1726-1738) nghe danh Ông Núi, quý trọng ông là một Thiền sư chân chánh nên ra lệnh xây cất lại chùa Dũng Tuyền trở thành một ngôi chùa lớn, đặt tên chùa là “Linh Phong Thiền Tự”, lại ban cho tấm hoành có viết bốn chữ “Linh Phong Thiền Tự”, phía trái khắc chữ “Vĩnh Khánh, tháng giêng năm Quí Sửu”, phía mặt có khắc chữ “Quốc Chủ ngự đề”. Chúa cũng ban cho chùa câu đối:
Hải ngạn khởi lương nhân, pháp vũ phổ thiên tư Phật thổ.
Linh Phong ngưng thoại khí, tường vân biến địa ấm nhân gian.
(Bờ biển gặp duyên may, mưa pháp khắp trời thấm nhuần đất Phật.
Núi Linh đọng khí tốt, mây lành khắp chốn che chở người đời)
Chúa lại ban cho Ông Núi hiệu “Tịnh Giác Thiện Trì Đại Lão thiền sư”.
Năm Tân Dậu (1741) niên hiệu Cảnh Hưng thứ ba, chúa Võ vương Nguyễn Phước Khoát (1738-1765) sắc triệu “Ông Núi” về đô thành Phú Xuân tham vấn Phật pháp. Ông Núi xách tích trượng về phủ Chúa ở đó một tháng. Chúa ban cho Ông Núi casa có móc vàng, vòng ngọc.
Ông Núi viên tịch tại chùa Linh Phong vào thời Tây Sơn, đồ chúng lập tháp thờ ở bên phải chùa vào năm Thái Đức thứ tám (1785). Tháp có câu đối:
“Quyền thạch tiệm thành sơn, thản thản u trinh thường lạc thổ.
Chúng lưu năng vi thủy, man man không tế Động Đình thiên”
(Gom đá dần dần thành núi, tĩnh mịch thênh thang đất Phật vui.
Nhiều dòng nước thành sông, mênh mông bát ngát trời Động Đình)
Năm Gia Long thứ bảy (1808), Hoàng hậu Hiếu Khương ra lệnh cho trùng tu chùa Linh Phong, trong khi trùng tu, không ai được lấy đi bất cứ một vật gì của chùa.
Sau khi viên tịch
Theo Linh Phong tự ký của Đào Tấn, năm 1808, vâng lệnh Thánh mẫu là Hoàng hậu Hiếu Khương, vua Gia Long ban lệnh không cho ai được xâm phạm hay lấy các vật dụng ở chùa trong khi chờ đợi trùng tu.
Đến đời Minh Mạng, một hôm nhà vua bị bệnh, vừa chợp mắt thì mộng thấy một vị sư già mặc áo vỏ cây đứng bên giường hầu quạt, đến sáng thì khỏi bệnh. Khi ngự triều, nhà vua đem chuyện ấy hỏi các quan, có người tâu rằng vị sư già đó có lẽ là Linh Phong thiền sư ở chùa Linh Phong ngày xưa.
Vì vậy, năm 1826, nhà vua sai quan trấn gom góp các pháp phục và vật dụng của các triều trước ban thưởng cho thiền sư, đưa về kinh đô (Huế) cho vua xem. Rồi nhân đó theo mẫu cũ chế ra một bộ cà sa có móc vàng và vòng ngà mới để thờ, đồng thời vua cũng cấp cho 120 lượng bạc giao cho quan trấn lo việc trùng tu chùa.
Vào đời Tự Đức, đại thần Phan Thanh Giản có đến viếng chùa Linh Phong và làm thơ đề vịnh.
Năm 1895, Đào Tấn được bổ làm Thượng thư bộ Công. Vì muốn sửa sang ngôi cổ tự, nên ông đem việc ấy tâu lên, vua Thành Thái bèn giao cho tỉnh thần 70 lạng bạc lo việc trùng tu chùa, đồng thời sai hiểu dụ dân trong tỉnh quyên góp thêm, đến tháng 8 (âm lịch) năm Đinh Dậu (1897) thì hoàn tất, và quang cảnh chùa lúc bấy giờ rất đẹp.
Năm Thành Thái thứ 15 (1903), Đào Tấn viết “Linh Phong tự ký” nhằm ghi lại “chút chuyện về chùa Linh Phong để khỏi mất mát”.
Tác phẩm
Theo Đào Tấn, thì thiền sư Tịnh Giác Thiện Trì có chú giải bộ kinh Pháp hoa và soạn quyển Ngọc Thạch đồ chương gồm 7 mục:
1/ Ngôi chùa lưng chừng núi.
2/ Thuở dựng chùa Dũng Tuyền.
3/ Hiệu là Ông núi. 4/ Gặp ta trong đá.
5/ Nơi yên tĩnh.
6./ Tính khí lặng lẽ.
7/ Nhà đá (thạch thất).
Ngoài ra, thiền sư “cũng có làm thơ đề vịnh, dấu bút mấy tờ, nhưng sư ở chùa vì không biết nên lấy số giấy ấy bồi bức vẽ tượng…rất tiếc thay”.
Tham khảo
- Sách “Thiền uyển tập anh”, Lê Mạnh Phát, Viện nghiên cứu Phật học, Nhà xuất bản Văn học, năm 1990
- Sách “Thiền sư Việt Nam”, Thích Thanh Từ, DL 1999 – PL 2543
- https://www.tienvnguyen.net/p147a2702/112-thien-su-tinh-giac-thien-tri-moc-y-son-ong