Tiểu sử
Thiền sư pháp danh Tổ Ấn, hiệu Mật Hoằng nói pháp đời 36 tông Lâm Tế theo kệ phái Đạo Mân Mộc Trần. Ngài họ Nguyễn, sinh quán tại Phù Cát, Bình Định và là đệ tử của Thiền sư Phật Ý Linh Nhạc tại chùa Đại Giác, Biên Hòa.
Ngài được vua Gia Long triệu ra Kinh đô Thuận Hóa phong chức Tăng cang chùa Thiên Mụ vào năm 1814. Cũng trong năm này, Ngài mở Giới đàn tại chùa Thiên Mụ.
Năm 1817, sau khi Thiền sư Tế Lịch Chánh Văn viên tịch, Ngài được bổ nhiệm trụ trì và có công rất lớn trong việc trùng kiến chùa Quốc Ân. Ngoài ra Ngài còn có công trong việc trùng tu các Tổ đình thuộc pháp phái Nguyên Thiều như chùa Thập Tháp ở Bình Định; chùa Từ Ân ở Gia Định, chùa Đại Giác ở Biên Hòa…v.v.
Đệ tử của Ngài rất nhiều và hành đạo khắp các tỉnh thành từ miền Trung cho đến miền Nam thời bấy giờ.
Thiền sư sinh năm Giáp Tuất (1754) và thị tịch vào ngày mùng 1 tháng 10 năm Ất Dậu (1825), thọ 73 tuổi. Bảo tháp được lập sau chùa Quốc Ân, long vị thờ tại Tổ đường ghi: “敕賜天姥住持重建國恩林濟正宗三十六世諱祖印上密下弘老和尚猊座” (Sắc tứ Thiên Mụ trú trì, trùng kiến Quốc Ân, Lâm Tế chánh tông Tam thập lục thế húy Tổ Ấn thượng Mật hạ Hoằng lão Hòa thượng nghê tòa).
Tại Huế, Ngài có các đệ tử như Tiên Ngộ Minh Giác (Tăng cang chùa Thiên Mụ); Tiên Đạt Nguyên Long; Tiên Chơn Chánh Thiện; Tiên Cố Chánh Kiến…v.v, kế thế nhau trí trì chùa Thiền Lâm, Huế.
Nguồn: Thích Như Tịnh, Lịch Đại Tổ Sư trú trì chùa Quốc Ân, tạp chí Liễu Quán số 8.